Tin Mừng Lu-Ca
TIN MỪNG THEO THÁNH LU-CA
DN Ch01 Ch02 Ch03 Ch04 Ch05 Ch06 Ch07 Ch08 Ch09 Ch10 Ch11 Ch12 Ch13 Ch14 Ch15 Ch16 Ch17 Ch18 Ch19 Ch20 Ch21 Ch22 Ch23 Ch24
Lời tựa a
1
1Thưa ngài b Thê-ô-phi-lô c đáng kính, có nhiều d người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta đ. 2Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa e truyền lại cho chúng ta. 3Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự g, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự h viết ra để kính tặng ngài, 4mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc i.
I. THỜI THƠ ẤU : ÔNG GIO-AN TẨY GIẢ VÀ ĐỨC GIÊ-SU SINH RA VÀ SỐNG ẨN DẬT k
Truyền tin cho ông Da-ca-ri-a
5Thời vua Hê-rô-đê l cai trị miền Giu-đê m, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia n, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách o được điều gì. 7Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi p. Vả lại, cả hai đều đã cao niên q.
8Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông r : 9Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương s trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng t cầu nguyện ở bên ngoài.
11Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải u hương án v. 12Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối x, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13Nhưng sứ thần bảo ông : “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ y, vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin a : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an b. 14Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan c ngày con trẻ chào đời. 15Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa d. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống đ. Và ngay khi còn trong lòng mẹ e, em đã đầy Thánh Thần. 16Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en g về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a h, em sẽ đi trước mặt Chúa i, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu k, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị l một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần : “Dựa vào đâu m mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.” 19Sứ thần đáp : “Tôi là Gáp-ri-en n, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng o ấy cho ông. 20Và này đây ông sẽ bị câm p, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu q như thế. 22Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
23Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình r năm tháng. 25Bà tự nhủ : “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục s tôi phải chịu trước mặt người đời.”
Truyền tin cho Đức Ma-ri-a t
26Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét u, 27gặp một trinh nữ v ođã thành hôn x với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “oMừng vui lên y, hỡi Đấng đầy ân sủng a, oĐức Chúa ở cùng bà b.” 29Nghe lời ấy, bà rất bối rối c, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì d.
30Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31Và này đây bà osẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su đ. 32Người sẽ nên cao cả e, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao g. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp h đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận i.”
34Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần k : “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng l !”
35Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà m, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà n ; vì thế, Đấng Thánh o sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa p. 36Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37vì ođối với Thiên Chúa q, không có gì là không thể làm được.”
38Bấy giờ bà Ma-ri-a nói : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ r của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi s như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Đức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét t
39Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi u, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà ođược đầy tràn Thánh Thần, 42liền kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi v đến với tôi thế này ? 44Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em x.”
Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat) y
46Bấy giờ bà Ma-ri-a nói :
“Linh hồn tôiongợi khen Đức Chúa,
47thần trí tôi ohớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
49Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
odanh Người thật chí thánh chí tôn !
50Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót
những ai kính sợ Người.
51Chúa giơ otay a biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53oKẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại b lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”
56Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng c, rồi trở về nhà.
Ông Gio-an Tẩy Giả ra đời, láng giềng chia vui d
57Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.
Ông Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì
59Khi con trẻ được tám ngày đ, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a e mà đặt cho em g. 60Nhưng bà mẹ lên tiếng nói : “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an h.” 61Họ bảo bà : “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” 62Rồi họ làm hiệu i hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên k cho em bé là gì. 63Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết l : “Tên cháu là Gio-an m.” Ai nấy đều bỡ ngỡ n. 64Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy o được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66Ai nghe cũng để tâm p suy nghĩ và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây ?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em q.
Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) r
67Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng :
68“Chúc tụng Đức Chúa s
là Thiên Chúa Ít-ra-en t
đã viếng thăm u cứu chuộc dân Người.
69Từ dòng dõi trung thần Đa-vít v,
Người đã cho xuất hiện
oVị Cứu Tinh quyền thế x để giúp ta,
70như Người đã dùng miệng
các vị thánh ngôn sứ
mà phán hứa tự ngàn xưa y :
71sẽ cứu ta othoát khỏi địch thù,
thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét ;
72osẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
và nhớ lại a lời xưa giao ước ;
73Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham
rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,
74và cho ta chẳng còn sợ hãi,
75để ta sống thánh thiện
công chính trước nhan Người,
mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
76Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu
là ngôn sứ của Đấng Tối Cao :
con sẽ đi trước Chúa,
omở lối cho Người b,
77bảo cho dân Chúa biết :
Người sẽ cứu độ
là tha cho họ hết mọi tội khiên c.
78Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
cho Vầng Đông
tự chốn cao vời d viếng thăm ta,
79osoi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và trong bóng tử thần đ,
dẫn ta bước vào đường nẻo bình an e.”
Ông Gio-an Tẩy Giả sống ẩn dật g
80Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa h cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
Đức Giê-su ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm. i
2
1Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô k ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ l. 2Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri m. 3Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. 4Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem n, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. 5Ông lên đó khai tên cùng với người ođã thành hôn với ông o là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. 6Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7Bà sinh con trai đầu lòng p, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà q không tìm được chỗ trong nhà trọ r.
8Trong vùng ấy, có những người chăn chiên s sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa t chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. 10Nhưng sứ thần bảo họ : “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : 11Hôm nay, một Đấng Cứu Độ u đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa v. 12Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” 13Bỗng có muôn vàn othiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng :
14“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an x dưới thế
cho loài người Chúa thương y.”
15Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau : “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra a, như Chúa đã tỏ cho ta biết.” 16Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. 18Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. 19Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy b, và suy đi nghĩ lại trong lòng c. 20Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa d, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Đức Giê-su chịu phép cắt bì
21Khi Hài Nhi ođược đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì đ, người ta ođặt tên cho Hài Nhi là Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa e
22Khi đã đến ngày lễ othanh tẩy của các ngài g theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23như đã chép trong Luật Chúa rằng : “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” h, 24và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là omột đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non i. 25Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en k, và oThánh Thần hằng ngự trên ông l. 26Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa m. 27Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su n đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và ochúc tụng Thiên Chúa rằng :
Bài ca “An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis) o
29“Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này
được an bình ra đi p.
30Vì chính omắt con được thấy ơn cứu độ q
31Chúa đã dành sẵn cho muôn dân :
32Đó là oánh sáng soi đường cho dân ngoại r,
là ovinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
Ông Si-mê-ôn nói tiên tri
33Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên s vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi t : “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ongã xuống hay đứng lên u. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng v ; 35và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra x. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà y.”
Bà An-na nói tiên tri
36Lại cũng có một nữ ngôn sứ a tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm b, 37rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ c, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa d. 38Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem đ.
Đức Giê-su tiếp tục sống ẩn dật tại Na-da-rét
39Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40e Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm ovững mạnh, đầy khôn ngoan g, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa h.
Đức Giê-su ngồi giữa các bậc thầy Do-thái i
41Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng olễ Vượt Qua k. 42Khi Người được mười hai tuổi l, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. 43Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. 44Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. 45Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
46Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi m. 47Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. 48Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người : “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !” 49Người đáp : “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao n ?” 50Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói o.
Đức Giê-su còn sống ẩn dật tại Na-da-rét
51Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì ohằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng p. 52Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta q.
II. ĐỨC GIÊ-SU CHUẨN BỊ THI HÀNH SỨ MẠNG
oÔng Gio-an Tẩy Giả rao giảng
3
1Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô r, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê s, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê t, người anh là Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít u, Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên v, 2Kha-nan và Cai-pha x làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. 3Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan y, rao giảng a, kêu gọi người ta chịu phép rửa b tỏ olòng sám hối c để được ơn tha tội, 4như có lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a d rằng : oCó tiếng người hô trong hoang địa : hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. 5Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp đ, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. 6Rồi hết mọi người phàm e sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa g.
7Đám đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa ; ông nói với họ h : “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống i vậy ? 8Các anh hãy sinh những hoa quả k xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng : Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham ; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 9Cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.”
10Đám đông hỏi ông rằng l : “oChúng tôi phải làm gì đây ?” 11Ông trả lời : “Ai ocó hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” 12Cũng có những người thu thuế m đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông : “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì ?” 13Ông bảo họ : “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” 14Binh lính cũng hỏi ông : “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì ?” Ông bảo họ : “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”
15Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi : biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a n ! 16Ông Gio-an trả lời mọi người rằng : “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến o, otôi không đáng cởi quai dép p cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần q và lửa r. 17Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi s.” 18Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
oÔng Gio-an Tẩy Giả bị bỏ tù
19Còn tiểu vương Hê-rô-đê thì bị ông Gio-an khiển trách vì đã lấy bà Hê-rô-đi-a t là vợ của người anh, và vì tất cả các tội ác tiểu vương đã phạm. 20Ngoài ra, tiểu vương còn phạm thêm tội này là bỏ tù ông Gio-an u.
oĐức Giê-su chịu phép rửa v
21Khi toàn dân đã chịu phép rửa x, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện y, thì trời mở ra, 22và oThánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu a. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha ; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con b.
oGia phả Đức Giê-su Ki-tô
23Khi Đức Giê-su c khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi d. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giu-se đ. Giu-se là con Ê-li, 24Ê-li con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi, Lê-vi con Man-ki, Man-ki con Gian-nai, Gian-nai con Giô-xếp. 25Giô-xếp con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con A-mốt, A-mốt con Na-khum, Na-khum con Khét-li, Khét-li con Nác-gai. 26Nác-gai con Ma-khát, Ma-khát con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con Sim-y, Sim-y con Giô-xếch, Giô-xếch con Giô-đa. 27Giô-đa con Giô-kha-nan, Giô-kha-nan con Rê-sa, Rê-sa con Dơ-rúp-ba-ven, Dơ-rúp-ba-ven con San-ti-ên.
San-ti-ên con Nê-ri,28Nê-ri con Man-ki, Man-ki con Át-đi, Át-đi con Cô-xam, Cô-xam con En-mơ-đam, En-mơ-đam con E. 29E con Giê-su, Giê-su con Ê-li-e-de, Ê-li-e-de con Giô-rim, Giô-rim con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi. 30Lê-vi con Si-mê-ôn, Si-mê-ôn con Giu-đa, Giu-đa con Giô-xếp, Giô-xếp con Giô-nam, Giô-nam con En-gia-kim, 31En-gia-kim con Ma-li-a, Ma-li-a con Mi-na, Mi-na con Mát-tát-ta, Mát-tát-ta con Na-than, Na-than con Đa-vít.
32Đa-vít con Gie-sê. Gie-sê con Ô-vết, Ô-vết con Bô-át, Bô-át con Xan-môn, Xan-môn con Nác-sôn. 33Nác-sôn con Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp con Át-min, Át-min con Ác-ni e, Ác-ni con Khét-rôn, Khét-rôn con Pe-rét, Pe-rét con Giu-đa. 34Giu-đa con Gia-cóp, Gia-cóp con I-xa-ác, I-xa-ác con Áp-ra-ham.
Áp-ra-ham con Te-rác, Te-rác con Na-kho.35Na-kho con Xơ-rúc, Xơ-rúc con Rơ-u, Rơ-u con Pe-léc, Pe-léc con Ê-ve. Ê-ve con Se-lác. 36Se-lác con Kê-nan, Kê-nan con Ác-pắc-sát, Ác-pắc-sát con Sêm, Sêm con Nô-ê, Nô-ê con La-méc. 37La-méc con Mơ-thu-se-lác. Mơ-thu-se-lác con Kha-nốc, Kha-nốc con Gie-rét, Gie-rét con Ma-ha-lan-ên, Ma-ha-lan-ên con Kê-nan. 38Kê-nan con E-nốt, E-nốt con Sết, Sết con A-đam và A-đam là con Thiên Chúa.
oĐức Giê-su chịu cám dỗ g
4
1Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. 2Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi h trong hoang địa và chịu quỷ i cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. 3Khi ấy quỷ nói với Người : “Nếu k ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi !” 4Nhưng Đức Giê-su đáp lại : “Đã có lời chép rằng : oNgười ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”
5Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao l, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. 6Rồi nó nói với Người : “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý m. 7Vậy nếu ông bái lạy tôi n, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” 8Đức Giê-su đáp lại : “Đã có lời chép rằng : Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và ophải thờ phượng một mình Người mà thôi.”
9Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem o và đặt Người trên nóc Đền Thờ p, rồi nói với Người : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi ! 10Vì đã có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11Lại còn chép rằng : Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá q.” 12Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại : “Đã có lời rằng : Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi r.”
13Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ s.
III. ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI MIỀN GA-LI-LÊ
Đức Giê-su bắt đầu rao giảng
14Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy t, Đức Giê-su trở về omiền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15Người ogiảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.
oĐức Giê-su tại Na-da-rét u
16Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường v như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp x đoạn chép rằng : 18Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi y, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19công bố một năm hồng ân của Chúa a.
20Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21Người bắt đầu nói với họ : “Hôm nay b đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp c thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau : “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?”23Người nói với họ : “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào d !” 24Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông : okhông một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình đ.
25“Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : vào thời oông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng e, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en ; 26thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai ođến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27Cũng vậy, vào thời ongôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người mắc bệnh phong ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi g. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi h.
oĐức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám
31Người xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Ga-li-lê, và ngày sa-bát, Người giảng dạy dân chúng. 32Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền i.
33Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập k, la to lên rằng : 34“Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông l, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi : ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa m !” 35Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó : “Câm đi, hãy xuất khỏi người này !” Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. 36Mọi người rất đỗi kinh ngạc và nói với nhau : “Lời ấy là thế nào ? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất !” 37Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng.
oĐức Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Si-môn
38Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn n. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt o, và cơn sốt biến mất : tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.
Đức Giê-su chữa lành nhiều người đau yếu
40oLúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người p, và la lên rằng : “Ông là Con Thiên Chúa !” Người quát mắng, không cho phép chúng nói q, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô r.
oĐức Giê-su rao giảng tại miền Giu-đê
42Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43Nhưng Người nói với họ : “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa s cho các thành khác nữa, ovì tôi được sai đi cốt để làm việc đó t.” 44Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê u.
oĐức Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên v
5
1Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ x Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông y.
4Giảng xong, Người bảo ông Si-môn : “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5Ông Si-môn đáp : “Thưa Thầy a, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô b sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói : “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi c !” 9Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn : “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta d.” 11Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự đ mà theo Người e.
oĐức Giê-su chữa người mắc bệnh phong
12Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia g ; có một người đầy bệnh phong h vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng : “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 13Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo : “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh. 14Rồi Người truyền anh ta không được nói với ai, và Người bảo : “oHãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết i.”
15Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng ; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh. 16Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện k.
oĐức Giê-su chữa người bại liệt l
17Một hôm, khi Đức Giê-su giảng dạy, có mấy người Pha-ri-sêu và luật sĩ ngồi đó ; họ từ khắp các làng mạc miền Ga-li-lê, Giu-đê và từ Giê-ru-sa-lem mà đến m. Quyền năng Chúa n ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. 18Bỗng có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người. 19Nhưng vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra o, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giê-su. 20Thấy họ có lòng tin như vậy, Người bảo : “Này anh p, anh đã được tha tội rồi.”
21Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu suy nghĩ : “Ông này là ai mà nói phạm thượng như thế ? Ai có quyền tha tội q, ngoài một mình Thiên Chúa ?” 22Nhưng Đức Giê-su thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng : “Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy ? 23Trong hai điều : một là bảo : ‘Anh đã được tha tội rồi’, hai là bảo : ‘Đứng dậy mà đi’, điều nào dễ hơn ? 24Vậy, để các ông biết : ở dưới đất này, Con Người r có quyền tha tội –Đức Giê-su bảo người bại liệt– : tôi truyền cho anh : Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà !” 25Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa.
26Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa s. Họ kinh hãi bảo nhau : “Hôm nay, chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ !”
oĐức Giê-su kêu gọi ông Lê-vi
27Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế t, tên là Lê-vi u, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông : “Anh hãy theo tôi !” 28Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người v.
oĐức Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi tại nhà ông Lê-vi
29Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông x. Có đông đảo người thu thuế và những người khác y cùng ăn với các ngài. 30Những người Pha-ri-sêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ a mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng : “Sao các ông b lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi c ?” 31Đức Giê-su đáp lại họ rằng : “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần d. 32Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn đ.”
oTranh luận về việc ăn chay
33Họ e nói với Người : “Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống !” 34Đức Giê-su trả lời : “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay g, khi chàng rể còn ở với họ ? 35Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, họ mới ăn chay h.”
36Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này i : “Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ k.
37“Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39Cũng không ai uống rượu cũ l mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói : ‘Rượu cũ ngon hơn’ m.”
oMôn đệ bứt lúa ăn ngày sa-bát
6
1Vào một ngày sa-bát n, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa ; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. 2Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói : “Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát o ?”
3Đức Giê-su trả lời : “Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách sao p ? Ông Đa-vít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng ? 4Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi q.” 5Rồi Người nói : “Con Người làm chủ ngày sa-bát r.”
oĐức Giê-su chữa người bại tay ngày sa-bát
6Một ngày sa-bát khác, Đức Giê-su cũng vào hội đường và giảng dạy. Ở đó có một người bị khô bại tay phải s. 7Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy t trong ngày sa-bát không, để tìm được cớ tố cáo Người. 8Nhưng Người biết họ đang suy nghĩ như thế u, nên bảo người bại tay : “Anh trỗi dậy, ra đứng giữa đây !” Người ấy liền trỗi dậy và đứng đó. 9Đức Giê-su nói với họ : “Tôi xin hỏi các ông : ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt v ?” 10Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay : “Anh giơ tay ra !” Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. 11Nhưng họ thì giận điên lên, và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giê-su không x.
oĐức Giê-su tuyển chọn mười hai Tông Đồ
12Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa y. 13Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ a. 14Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô b, rồi đến ông An-rê, anh của ông ; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, 15Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích c, 16Giu-đa con ông Gia-cô-bê d, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt đ, người đã trở thành kẻ phản bội.
oDân chúng kéo đến cùng Đức Giê-su
17Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê e, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn 18đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành. 19Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì ocó một năng lực tự nơi Người phát ra g, chữa lành hết mọi người.
oBài giảng khai mạc. Các mối phúc thật h.
20Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói :
“Phúc choianh em
là những kẻ onghèo khó k,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
21“Phúc cho anh em
là những kẻ bây giờ đang phải đói l,
vì Thiên Chúa
sẽ cho anh em được no lòng.
“Phúc cho anh em
là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
vì anh em sẽ được vui cười m.
22“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa n. 23Ngày đó, anh em hãy vui mừng onhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế o.
Các mối hoạ p
24“Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
25“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
26“Khốn cho các ngươi khi được mọi người q ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.
oYêu thương kẻ thù
27“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây : hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, 28hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và ocầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. 29oAi vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong r. 30Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. 31oAnh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy s. 32Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa t ? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. 33Và nếu anh em làm ơn u cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa ? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. 34Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa ? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. 35Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả v. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.
Phải có lòng nhân từ
36“Anh em hãy có lòng nhân từ x, như Cha anh em là Đấng nhân từ. 37oAnh em đừng xét đoán y, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa a lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. 38Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì b anh em đong bằng đấu nào, thì oThiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”
Mù mà lại dắt mù. Cái rác và cái xà.
39Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này : “oMù mà lại dắt mù được sao ? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố c ? 40oHọc trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. 41Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới ? 42Sao anh lại có thể nói với người anh em : ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình ? Hỡi kẻ đạo đức giả d ! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em !
Cây nào trái ấy
43“oKhông có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. 44Thật vậy, xem quả thì biết cây. oỞ bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho ! 45Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình ; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra đ.
Phải thực hành lời Đức Giê-su dạy
46“Tại sao anh em gọi Thầy : ‘Lạy Chúa ! Lạy Chúa !’, mà anh em không làm điều Thầy dạy ?
47“Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. 48Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc e. 49Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. oNước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành.”
oĐức Giê-su chữa người nô lệ của một đại đội trưởng g
7
1Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe h, Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um. 2Một viên đại đội trưởng i kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết k. Ông ta yêu quý người ấy lắm. 3Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông.
4Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng : “Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. 5Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta l.” 6Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người : “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. 7Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. 8Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này : ‘Đi !’ là nó đi ; bảo người kia : ‘Đến !’ là nó đến ; và bảo người nô lệ của tôi : ‘Làm cái này !’ là nó làm.” 9Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng : “oTôi nói cho các ông hay : ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế m.” 10Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ n đã khỏi hẳn.
Đức Giê-su cho con trai một bà goá thành Na-in sống lại
11Sau đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in o, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12Đức Giê-su đến gần cửa thành đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất p, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13Trông thấy bà, Chúa q chạnh lòng thương và nói : “Bà đừng khóc nữa !” 14Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài r. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói : “Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy s !” 15Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ t. 16Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa u rằng : “Một vị ngôn sứ vĩ đại v đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm x dân Người.” 17Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận y.
oCâu hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su
18Môn đệ của ông Gio-an báo cho ông biết tất cả những việc ấy ; ông Gio-an liền gọi hai người trong nhóm môn đệ lại, 19sai họ đến hỏi Chúa a rằng : “Thầy có thật là Đấng phải đến không b, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác c ?” 20Khi đến gặp Đức Giê-su, hai người ấy nói : “Ông Gio-an Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy : ‘Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?’” 21Chính giờ ấy, Đức Giê-su chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy d. 22Người trả lời hai người ấy rằng : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy đ, kẻ nghèo được nghe tin mừng e, 23và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi g.”
24Khi những người ông Gio-an sai đến đã ra về, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Anh em đi xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng h ? 25Hẳn là không ! Thế thì anh em đi xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng i ? Nhưng kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung trong điện. 26Thế thì anh em đi xem gì ? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó ; mà tôi nói cho anh em biết : đây còn hơn cả ngôn sứ nữa k ! 27Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến l !
28“Tôi nói cho anh em biết : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ m, không có ai n cao trọng hơn ông Gio-an ; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông o. 29Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính p và đã chịu phép rửa của ông. 30Còn những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật q thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ r, và không chịu phép rửa của ông.
oĐức Giê-su phán đoán về thế hệ của Người
31“Vậy tôi phải ví người thế hệ này với ai ? Họ giống ai ? 32Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói :
‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa ;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không khóc than.’
33“Thật vậy, ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo : ‘Ông ta bị quỷ ám s.’ 34Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : ‘Đây là tay ăn nhậu t, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ 35Nhưng Đức Khôn Ngoan u đã được tất cả con cái v mình biện minh cho.”
Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến Chúa nhiều x
36Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu y mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn a. 37Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi b trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm c. 38Chị đứng đằng sau, sát chân Người d mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên đ.
39Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng : “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào : một người tội lỗi e !” 40Đức Giê-su lên tiếng bảo ông : “Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông !” Ông ấy thưa : “Dạ, xin Thầy cứ nói.” 41Đức Giê-su nói : “Một chủ nợ kia có hai con nợ : một người nợ năm trăm quan tiền g, một người năm chục. 42Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?” 43Ông Si-môn đáp : “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức Giê-su bảo : “Ông xét đúng lắm.”
44Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn : “Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông : nước lã, ông cũng không đổ h lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây i, đã không ngừng hôn chân tôi. 46Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi k. 47Vì thế, tôi nói cho ông hay : tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều l. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” 48Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ : “Tội của chị đã được tha rồi.” 49Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng : “Ông này là ai mà lại tha được tội ?” 50Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ : “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an m.”
Những người phụ nữ đi theo Đức Giê-su
8
1Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai n 2và mấy người phụ nữ o đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la p, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ q, 3bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ r.
oDụ ngôn người gieo giống
4Người ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giê-su. Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng s :
5“Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. 6Hạt khác rơi trên đá t, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. 7Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. 8Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm u.” Nói xong, Người hô lên rằng : “Ai có tai nghe thì nghe v.”
oTại sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói ? x
9Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. 10Người đáp : “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa ; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu y.
oGiải nghĩa dụ ngôn người gieo giống
11“Đây là ý nghĩa dụ ngôn a : Hạt giống là lời Thiên Chúa. 12Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin b mà được cứu độ. 13Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách c, họ bỏ cuộc. 14Hạt rơi vào bụi gai : đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường d bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. 15Hạt rơi vào đất tốt : đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại đ, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì e mà sinh hoa kết quả.
oLãnh nhận và truyền bá giáo huấn của Đức Giê-su thế nào
16“oChẳng có ai đốt đèn g, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. 17Vì ochẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. 18Vậy hãy để ý tới cách thức h anh em nghe. Vì oai đã có, thì được cho thêm ; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng i là có, cũng sẽ bị lấy mất k.”
oNhững ai thật sự thuộc gia đình của Đức Giê-su l
19Mẹ và anh em m Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. 20Người ta báo cho Người biết : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp n Thầy.” 21Người đáp lại : “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành o.”
oĐức Giê-su dẹp yên biển động
22Một ngày nọ, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ. Người nói : “Chúng ta sang bên kia hồ đi p !” Rồi thầy trò ra khơi. 23Đang khi các ngài đi thuyền, thì Đức Giê-su thiếp ngủ. Một trận cuồng phong q ập xuống hồ ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy. 24Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy và nói : “Thầy ơi, Thầy r ! Chúng ta chết mất !” Người thức dậy, ngăm đe s sóng gió t, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay. 25Người bảo các ông : “Đức tin anh em ở đâu u ?” Các ông hoảng sợ, kinh ngạc v và nói với nhau : “Vậy người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh ?”
oĐức Giê-su chữa người bị quỷ ám tại Ghê-ra-sa
26Thầy trò ghé thuyền vào vùng đất của người Ghê-ra-sa x, đối diện với miền Ga-li-lê. 27Người vừa ra khỏi thuyền và đặt chân lên đất, thì có một người dân trong thành y bị quỷ ám a ra đón Người. Từ lâu, anh ta không mặc quần áo, không ở trong nhà, nhưng ở trong đám mồ mả b.
28Thấy Đức Giê-su, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng nói rằng : “Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông c ? Tôi xin d ông đừng hành hạ tôi !” 29Ấy là vì Đức Giê-su đã truyền cho thần ô uế xuất khỏi người ấy. Thật vậy, đã nhiều lần quỷ bắt lấy anh ta, người ta dùng xiềng xích gông cùm mà trói và giữ anh ; nhưng anh bứt tung dây trói và bị quỷ đưa vào những nơi hoang vắng đ. 30Đức Giê-su hỏi anh : “Tên anh là gì e ?” Anh thưa : “Đạo Binh”, vì rất nhiều quỷ nhập vào anh. 31Lũ quỷ nài xin Người đừng truyền cho chúng rút xuống vực thẳm g.
32Ở đó có một bầy heo h khá đông đang ăn trên núi. Lũ quỷ nài xin Người cho phép chúng nhập vào bầy heo kia, và Người cho phép. 33Lũ quỷ xuất khỏi người đó, nhập vào bầy heo. Cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống hồ và chết ngộp hết.
34Thấy sự việc xảy ra, các người chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. 35Thiên hạ ra xem sự việc đã xảy ra. Họ đến cùng Đức Giê-su và thấy kẻ đã được trừ quỷ đang ngồi dưới chân Đức Giê-su i, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo. Họ phát sợ. 36Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe người bị quỷ ám được cứu chữa k thế nào. 37Bấy giờ đông đảo dân chúng vùng Ghê-ra-sa xin Người rời họ, vì họ sợ quá. Thế nên Người xuống thuyền trở về.
38Kẻ đã được trừ quỷ xin được ở với Người. Nhưng Người bảo anh ta về và nói : 39“Anh cứ về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho anh.” Anh ta ra đi, rao truyền cho cả thành l biết mọi điều Đức Giê-su đã làm cho anh.
oĐức Giê-su chữa người đàn bà bị rong huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại
40Khi Đức Giê-su trở về thì đám đông tiếp đón, vì ai ai cũng đợi chờ Người. 41Bỗng có một người tên là Gia-ia đi tới ; ông là trưởng hội đường m. Ông sụp xuống dưới chân Đức Giê-su, nài xin Người vào nhà ông, 42vì ông có một đứa con gái duy nhất n độ mười hai tuổi, mà nó lại sắp chết. Trong khi Người đi, đám đông dân chúng chen lấn làm Người nghẹt thở.
43Có một bà kia bị rong huyết đã mười hai năm o, không ai có thể chữa được. 44Bà tiến đến phía sau Người p và sờ vào tua áo của Người q. Tức khắc, máu ngừng chảy. 45Đức Giê-su hỏi : “Ai là người đã sờ vào tôi ?” Mọi người đều chối, nên ông Phê-rô nói r : “Thưa Thầy, đám đông xô đẩy, chen lấn Thầy đấy !” 46Nhưng Đức Giê-su nói : “Có người đã đụng vào Thầy, vì Thầy biết có một năng lực tự nơi Thầy phát ra s.” 47Người đàn bà thấy mình không giữ kín được nữa, thì run rẩy đến phủ phục trước mặt Người, và loan báo trước mặt toàn dân lý do tại sao bà đã đụng vào Đức Giê-su t, và bà đã được khỏi bệnh tức khắc như thế nào. 48Đức Giê-su nói với bà : “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an u.”
49Đức Giê-su còn đang nói, thì có người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông : “Con gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa !” 50Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông trưởng hội đường : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ được cứu.” 51Khi đến nhà, Người không cho ai vào với mình, trừ ông Phê-rô, ông Gio-an, ông Gia-cô-bê v và cha mẹ của đứa bé. 52Mọi người đều đấm ngực khóc thương nó. Đức Giê-su nói : “Đừng khóc ! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy x !” 53Họ chế nhạo Người, vì biết nó đã chết. 54Nhưng Người cầm lấy tay nó, lên tiếng gọi : “Này bé, trỗi dậy đi y !” 55Hồn đứa bé trở lại a, và nó đứng dậy ngay. Đức Giê-su bảo người ta cho nó ăn. 56Cha mẹ nó kinh ngạc. Nhưng Người ra lệnh cho họ không được nói với ai về việc đã xảy ra.
oĐức Giê-su sai mười hai Tông Đồ đi giảng
9
1Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật b. 2Người sai các ông c đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3Người nói : “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. 4Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. 5Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy ogiũ bụi d chân để tỏ ý phản đối họ.” 6Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.
oVua Hê-rô-đê và Đức Giê-su
7Tiểu vương Hê-rô-đê đ nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm e. Thật vậy, có kẻ nói : “Đó là ông Gio-an từ cõi chết trỗi dậy.” 8Kẻ khác nói : “Ông Ê-li-a xuất hiện đấy g !” Kẻ khác nữa lại nói : “Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại.” 9Còn vua Hê-rô-đê thì nói : “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế ?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giê-su h.
oCác Tông Đồ trở về. Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều i.
10Các Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức Giê-su những việc các ông đã làm. Người đem các ông đi riêng với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa k. 11Đám đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
12Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng : “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ l và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng.” 13Đức Giê-su bảo : “Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp : “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này.” 14Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm m khoảng năm mươi người một n.” 15Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. 16Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra o và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. 17Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng p.
oÔng Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa q
18Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện r một mình s. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng : “Dân chúng nói Thầy là ai ?” 19Các ông thưa t : “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.” 20Người lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa u.” 21Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.
oĐức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất
22Người còn nói v : “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư x loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy y.”
oĐiều kiện phải có để theo Đức Giê-su a
23Rồi Đức Giê-su nói với mọi người b : “oAi muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình c hằng ngày d mà theo. 24Quả vậy, oai muốn cứu mạng sống mình đ, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ? 26Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình e, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.
oTriều đại Thiên Chúa đã gần đến
27“Thầy bảo thật anh em : trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết g, trước khi thấy Nước Thiên Chúa h.”
oĐức Giê-su hiển dung i
28Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện k đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. 29Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác l, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a m. 31Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển n, và nói về cuộc xuất hành o Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. 32Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. 33Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su p, ông Phê-rô thưa với Người rằng : “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay q ! Chúng con xin dựng ba cái lều r, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” Ông không biết mình đang nói gì. 34Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông s. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. 35Và từ đám mây có tiếng phán rằng : “Đây là oCon Ta, ongười đã được Ta tuyển chọn t, hãy vâng nghe lời Người u !” 36Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy v, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy x.
oĐức Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong
37Hôm sau, khi Đức Giê-su và ba môn đệ ở trên núi xuống, có đám đông dân chúng tới đón Người. 38Bỗng có một người đàn ông từ trong đám đông kêu lên rằng : “Thưa Thầy, tôi xin Thầy đoái nhìn đứa con trai tôi, vì tôi chỉ có một mình cháu y. 39Thế mà quỷ nhập vào cháu, khiến cháu bỗng dưng la lên a, vật mình vật mẩy, sùi cả bọt mép, và khó lắm nó mới chịu rời cháu, bỏ cháu lại đó mệt nhừ. 40Tôi có xin các môn đệ Thầy trừ tên quỷ đó, nhưng các ông trừ không được.” 41Đức Giê-su đáp : “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà ! Tôi phải ở cùng các người và chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa b ? Ông đem cháu lại đây !” 42Đứa trẻ đang tiến lại, thì quỷ vật nó xuống và lay nó thật mạnh. Đức Giê-su quát mắng tên quỷ ô uế, chữa đứa trẻ, và trao lại cho cha nó c. 43Mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Thiên Chúa d.
oĐức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai
Đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Đức Giê-su làm, Người nói với các môn đệ :44“Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây đ : Con Người sắp bị nộp vào tay người đời e.” 45Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.
oAi là người lớn nhất trong các môn đệ ?
46Một câu hỏi chợt đến với các ông : Trong các ông, ai là người lớn nhất ? 47Đức Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình 48và nói với các ông : “oAi tiếp đón em nhỏ g này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy ; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”
oNhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ
49Ông Gio-an lên tiếng nói : “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ h. Chúng con đã cố ngăn cản i, vì người ấy không cùng với chúng con đi theo Thầy.” 50Đức Giê-su bảo ông : “Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta k !”
IV. ĐỨC GIÊ-SU LÊN GIÊ-RU-SA-LEM l
Một làng miền Sa-ma-ri không đón tiếp Đức Giê-su
51Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời m, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem n. 52Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến o. 53Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng : “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không p ?” 55Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông q. 56Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
oĐức Giê-su đòi hỏi môn đệ phải bỏ mọi sự r
57Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” 58Người trả lời : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu s.”
59Đức Giê-su nói với một người khác : “Anh hãy theo tôi t !” Người ấy thưa : “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” 60Đức Giê-su bảo : “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ u. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
61Một người khác nữa lại nói : “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã v.” 62Đức Giê-su bảo : “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Đức Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ đi giảng
10
1Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai x người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến y. 2Người bảo các ông :
“oLúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về a.3Anh em hãy ra đi. oNày Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4oĐừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường b. 5Vào bất cứ nhà nào c, trước tiên hãy nói : ‘Bình an d cho nhà này !’ 6Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an đ, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì olàm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia e. 8Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ : ‘oTriều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông g.’ 10Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói : 11‘Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông h. Tuy nhiên các ông phải biết điều này : Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.’ 12Thầy nói cho anh em hay i : trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.
13“oKhốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din ! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa k ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi l. 14Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. 15Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng osẽ được nâng lên đến tận trời ư ? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ !
16“Ai nghe anh em là nghe Thầy ; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy ; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy m.”
“Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời”
17Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy n, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” 18Đức Giê-su bảo các ông : “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống o. 19Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù p, mà chẳng có gì làm hại được anh em q. 20Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần r phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời s.”
oChúa Cha mặc khải cho những người bé mọn t
21Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động u, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn v. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha x.
Chúa Cha và Chúa Con
22y “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho a.”
oĐặc ân các môn đệ
23Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng : “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy b ! 24Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết : nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa c đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”
oĐiều răn lớn d
25Và này có người thông luật kia đ đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng e : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp g ?” 26Người đáp : “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào h ?” 27Ông ấy thưa : “oNgươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực i, và hết trí khôn ngươi, và oyêu mến người thân cận như chính mình k.” 28Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là osẽ được sống.”
Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành
29Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý l, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người thân cận của tôi m ?” 30Đức Giê-su đáp n : “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô o, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi p. 32Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33Nhưng một người Sa-ma-ri kia q đi đường, tới ngang chỗ người ấy r, cũng thấy, và chạnh lòng thương. 34Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu s đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ 36Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37Người thông luật trả lời : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy t.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy u.”
Hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a v
38Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. 39Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa x mà nghe lời Người dạy. 40Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói : “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” 41Chúa đáp : “Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! 42Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi y. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất a và sẽ không bị lấy đi.”
Kinh “Lạy Cha” b
11
1Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia c. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông d.” 2Người bảo các ông : “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói đ :
‘oLạy Chae,
xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển g,
Triều Đại Cha mau đến h,
3xin Cha cho chúng con
ngày nào có lương thực ngày ấy i ;
4xin tha k tội l cho chúng con,
vì chính chúng con cũng tha
cho mọi người mắc lỗi m với chúng con,
và xin đừng để chúng con
sa chước cám dỗ n.’”
Người bạn quấy rầy o
5Người còn nói với các ông : “Ai trong anh em p có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói : ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’ ; 7mà người kia từ trong nhà lại đáp : ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi : cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’ ? 8Thầy nói cho anh em biết : Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó q.
oCứ xin thì sẽ được
9“Thế nên Thầy bảo anh em : Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho r. 11Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin s cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? 12Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ? 13Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu t mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời u lại không ban Thánh Thần v cho những kẻ kêu xin Người x sao ?”
oĐức Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun
14Bấy giờ Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được y. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. 15Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo : “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun a mà trừ quỷ.” 16Kẻ khác lại muốn thử Người, nên ođã đòi Người một dấu lạ từ trời b. 17Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói : “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia c. 18Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được ?… bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái d các ông dựa thế ai mà trừ đ ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa e mà trừ quỷ, thì quả là oTriều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông g. 21Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22Nhưng nếu có người mạnh thế hơn h đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
oKhông theo Đức Giê-su là chống lại Người
23“Ai không đi với tôi là chống lại tôi i, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán k.
oQuỷ phản công
24“Khi thần ô uế xuất khỏi một người l, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy m, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói : ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.’ 25Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. 26Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác n dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước.”
Thế nào là hạnh phúc thật
27Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người : “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm o !” 28Nhưng Người đáp lại : “Đúng hơn phải nói rằng : oPhúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa p.”
oDấu lạ ngôn sứ Giô-na
29Khi dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói q : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác ; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào r, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy s. 31t Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn u ; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng v ; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa x.
Hai lời nói về đèn y
33“oChẳng có ai đốt đèn lên rồi đặt vào chỗ khuất hoặc dưới cái thùng a, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.
34“oĐèn của thân thể là con mắt b của anh. Khi mắt anh sáng c, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. 35d Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối đ. 36Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh e.”
Đức Giê-su khiển trách các người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật g
37Đức Giê-su đang nói, thì có omột ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa h. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn i. 39Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng : “Thật, onhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà k. 40Đồ ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao l ? 41Tốt hơn, hãy bố thí m những gì ở bên trong n, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người. 42Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ o. 43Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! oCác người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng. 44Khốn cho các người ! Các người onhư mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay p.”
45Một người trong số các nhà thông luật q lên tiếng nói : “Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa !” 46Đức Giê-su nói : “Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật ! Các người ochất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi r, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.
47“Khốn cho các người ! Các người oxây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy ! 48Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng s.
49“Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa t đã phán : oTa sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ u đến với chúng : chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia v. 50Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu x tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện y. Phải, tôi nói cho các người biết : thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu a.
52“Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật ! Các người ođã cất giấu b chìa khoá của sự hiểu biết c : các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”
53Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư d và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.
Hãy nói công khai và đừng sợ
12
1Trong lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói đ, trước hết là với các môn đệ e : “Anh em phải coi chừng omen Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả g. 2oKhông có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày h ; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà i.
4“Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết : oAnh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. 5Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai : hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục k. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết : anh em hãy sợ Đấng ấy. 6Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không l ? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
8“Thầy nói cho anh em biết : oPhàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa m. 9Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.
10“Bất cứ oai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha ; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha n.
11“oKhi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền o, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao p, hoặc phải nói gì, 12vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói q.”
Đừng thu tích của cải cho mình r
13Có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi s.” 14Người đáp : “Này anh t, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh u ?” 15Và Người nói với họ : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu v.”
16Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này x : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17mới nghĩ bụng rằng y : ‘Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu !’ 18Rồi ông ta tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng a : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !’ 20Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại b mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?’ 21c Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa d, thì số phận cũng như thế đó đ.”
oTin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng
22Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết : Đừng lo e cho mạng sống : lấy gì mà ăn ; cũng đừng lo cho thân thể : lấy gì mà mặc ; 23vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. 24Hãy nhìn những con quạ mà suy : chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao ! 25Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang tay g ? 26Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì h ? 27Hãy nhìn hoa huệ mà suy : chúng không kéo sợi, không dệt vải i, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết : ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 28Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin ! 29Phần anh em, đừng tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, và đừng bận tâm. 30Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm ; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. 31Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho.
32“Hỡi ođoàn chiên nhỏ bé k, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em l.
Bán của cải đi mà bố thí
33“Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí m. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. 34Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.
Phải sẵn sàng chờ Chủ trở về n
35“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn o. 36Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về p, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. 37Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em : Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. 38Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. 39oAnh em hãy biết điều này : Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách q nhà mình đâu. 40Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
41Bấy giờ ông Phê-rô hỏi : “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người r ?” 42Chúa đáp : “oVậy thì ai là người quản gia s trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc ? 43Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. 44Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 45Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng t : ‘Chủ ta còn lâu mới về’, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, 46chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra u, bắt phải chung số phận với những tên thất tín v.
47“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. 48Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn x.
Thái độ của Đức Giê-su trước cuộc Thương Khó y
49“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên a ! 50Thầy còn omột phép rửa b phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !
“oThầy đến để gây chia rẽ”
51“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao ? Thầy bảo cho anh em biết : không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ c. 52Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. 53Họ sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai, con trai chống lại cha ; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng d.”
Nhận xét thời đại đ
54Đức Giê-su cũng nói với đám đông rằng : “Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các người nói ngay : ‘Mưa đến nơi rồi’, và xảy ra đúng như vậy. 55Khi thấy gió nồm thổi, các người nói : ‘Trời sẽ oi bức’, và xảy ra đúng như vậy. 56Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này e, sao các người lại không biết nhận xét ?
57“Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải ? 58Thật vậy g, khi anh đi cùng ođối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. 59Tôi bảo cho anh biết : anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng.”
Nếu không sám hối, thì sẽ chết hết h
13
1Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng i. 2Đức Giê-su đáp lại rằng : “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao ? 3Tôi nói cho các ông biết : không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội k nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao ? 5Tôi nói cho các ông biết : không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
Dụ ngôn cây vả không ra trái l
6Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này : “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7nên bảo người làm vườn : ‘Anh coi, đã ba năm nay m tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất ?’ 8Nhưng người làm vườn đáp : ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.’”
Đức Giê-su chữa một phụ nữ còng lưng ngày sa-bát n
10Ngày sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường. 11Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật o đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được p. 12Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo : “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền !” 13Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa q.
14Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát r. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng : “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát !” 15Chúa đáp : “Những kẻ đạo đức giả kia ! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước s ? 16Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao t ?” 17Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.
oDụ ngôn hạt cải u
18Vậy Người nói : “Nước Thiên Chúa giống cái gì đây v ? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì ? 19Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây x, chim trời làm tổ trên cành được y.”
oDụ ngôn nắm men trong bột a
20Người lại nói : “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì ? 21Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”
Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại.
22Trên đường lên Giê-ru-sa-lem b, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. 23Có kẻ hỏi Người : “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : 24“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào c, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.
25“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói : ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào !’, thì ông sẽ bảo anh em : ‘Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !’ 26Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi d.’ 27Nhưng ông sẽ đáp lại đ : e ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. oCút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính g !’
28“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài h. 29oThiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc i đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
30“Và kìa có những kẻ ođứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót k.”
Con cáo già Hê-rô-đê l
31Cũng vào giờ ấy, có mấy người Pha-ri-sêu m đến thưa Đức Giê-su rằng : “Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hê-rô-đê n đang muốn giết ông !” 32Người bảo họ : “Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này : ‘Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba o tôi hoàn tất p. 33Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem q thì không được.’
oĐức Giê-su than trách thành Giê-ru-sa-lem
34“Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu r. 35Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi s. Mà oTa nói cho các ngươi hay : các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói : Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa t !”
oNgày sa-bát Đức Giê-su chữa người mắc bệnh phù thũng u
14
1Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa v : họ cố dò xét Người. 2Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng. 3Người lên tiếng nói với các nhà thông luật x và những người Pha-ri-sêu : “oCó được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không y ?” 4Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5Rồi Người nói với họ : “Ai trong các ông có đứa con trai a hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát b ?” 6Và họ không thể đáp lại những lời đó.
“Hãy ngồi chỗ cuối”
7Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này c : 8“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng : ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống chỗ cuối. 10Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói : ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11Vì ophàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên d.”
“Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”
12Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người đ rằng : “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù e. 14Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc : g vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại h.”
oDụ ngôn khách được mời xin kiếu i
15Nghe vậy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su : “Phúc thay ai được dự tiệc k trong Nước Thiên Chúa l !” 16Người đáp : “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. 17Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng m : ‘Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn n.’ 18Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu o. Người thứ nhất nói : ‘Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm ; cho tôi xin kiếu.’ 19Người khác nói : ‘Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây ; cho tôi xin kiếu.’ 20Người khác nói : ‘Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được p.’
21“Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng : ‘Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây q.’ 22Đầy tớ nói : ‘Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ.’ 23Ông chủ bảo người đầy tớ : ‘Ra các đường làng, đường xóm r, ép s người ta vào đầy nhà cho ta. 24Tôi nói cho các anh biết : Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi t.’”
Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giê-su
25Có rất đông người u cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :
26“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ v cha mẹ, vợ x con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27oAi không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
Từ bỏ hết những gì mình có y
28“Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không ? 29Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo : 30‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc.’ 31Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? 32Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được a.
Muối mà nhạt đi…
34“oMuối quả là một cái gì tốt b. Nhưng chính muối mà nhạt đi, thì lấy gì ướp nó cho mặn lại ? 35Dùng nó để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp, nên người ta quăng nó ra ngoài c. Ai có tai nghe thì nghe d.”
Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa đ
15
1Các người thu thuế và các người tội lỗi e đều g lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng h.” 3Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :
oDụ ngôn con chiên bị mất i
4“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang k, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? 5Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi l, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.’ 7Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời m cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn n.
Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất
8“Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan o, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? 9Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.’ 10Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa p, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Dụ ngôn người cha nhân hậu q
11Rồi Đức Giê-su nói tiếp : “Một người kia có hai con trai. 12Người con thứ nói với cha rằng : ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng r.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng s, phung phí tài sản của mình.
14“Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng ; người này sai anh ta ra đồng chăn heo t. 16Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng u, nhưng chẳng ai cho. 17Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ v : ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói x ! 18Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người : ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời y và với cha, 19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta a và hôn lấy hôn để.21Bấy giờ người con nói rằng : ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa… b.’ 22Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : ‘Mau đem áo đẹp nhất c ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu d, 23rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! 24Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy đ.’ Và họ bắt đầu ăn mừng.
25“Lúc ấy người con cả e của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27Người ấy trả lời : ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’ 28Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29Cậu trả lời cha : ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh g, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha đó h, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !’
31“Nhưng người cha nói với anh ta : ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha i, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta k phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây l đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy m.’”
Dụ ngôn người quản gia bất lương n
16
1Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng : “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2Ông mới gọi anh ta đến mà bảo : ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa !’ 3Người quản gia liền nghĩ bụng o : ‘Mình sẽ làm gì đây ? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người p đón rước mình về nhà họ !’
5“Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất : ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?’ 6Người ấy đáp : ‘Một trăm thùng q dầu ô-liu.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ 7Rồi anh ta hỏi người khác : ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ?’ Người ấy đáp : ‘Một ngàn giạ r lúa.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.’
8“Và ông chủ khen tên quản gia bất lương s đó đã hành động khôn khéo t. Quả thế, con cái đời này u khôn khéo hơn con cái ánh sáng v khi xử sự với người đồng loại x.
Trung tín trong việc sử dụng Tiền Của y
9“Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Hãy dùng Tiền Của a bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc b, họ c sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu d. 10Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn ; ai bất lương đ trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ? 12Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em e ?
13“Không gia nhân nào ocó thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi g Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.”
Đức Giê-su khiển trách người Pha-ri-sêu ham tiền
14Người Pha-ri-sêu h vốn ham hố tiền bạc i, nên nghe các điều ấy k, thì cười nhạo Đức Giê-su. 15Người bảo họ : “Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời l, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông m, bởi vì điều cao trọng đối với người đời n lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa o.
Dùng sức mạnh mà vào Nước Thiên Chúa
16“Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ p ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào q.
Lề Luật sẽ không bao giờ ra vô hiệu
17“Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết r của Lề Luật rụng mất.
Vấn đề ly dị
18“Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình ; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình s.
Dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó t
19“Có một ông nhà giàu kia u, mặc toàn lụa là gấm vóc v, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô x, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21thèm được những thứ y trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no a. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta b. 22Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham c. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
23“Dưới âm phủ d, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24Bấy giờ ông ta kêu lên : ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !’ 25Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ đ. 26Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được e.’
27“Ông nhà giàu nói : ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !’ 29Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ 30Ông nhà giàu nói : ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.’ 31Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin g.’”
oCớ vấp ngã
17
1Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng h : “Không thể không có i những cớ làm cho người ta vấp ngã k ; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã ! 2Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. 3Anh em hãy đề phòng !
oSửa lỗi anh em
“Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh l, thì hãy khiển trách nó ; nếu nó hối hận, thì hãy tha cho nó.4Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh : ‘Tôi hối hận’, thì anh cũng phải tha cho nó.”
Sức mạnh của lòng tin
5Các Tông Đồ m thưa với Chúa Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con n.” 6Chúa đáp : “oNếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải o, thì dù anh em có bảo cây dâu này : ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.
Phục vụ cách khiêm tốn
7“Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó : ‘Mau vào ăn cơm đi’, 8chứ không bảo : ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn p cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !’ ? 9Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao q ? 10Đối với anh em cũng vậy : khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng r, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Mười người mắc bệnh phong
11Trên đường lên Giê-ru-sa-lem s, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê t. 12Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người mắc bệnh phong đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa u 13và kêu lớn tiếng : “Lạy Thầy Giê-su v, xin rủ lòng thương chúng tôi !” 14Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “oHãy đi trình diện với các tư tế x.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa y. 16Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17Đức Giê-su mới nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
“Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”
20Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến a. Người trả lời : “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được b. 21Và người ta sẽ không nói : ‘Ở đây này !’ hay ‘Ở kia kìa !’, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông c.”
Ngày của Con Người d
22Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Sẽ đến thời oanh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi đ, mà cũng không được thấy. 23Người ta osẽ bảo anh em : ‘Người ở kia kìa !’ hay ‘Người ở đây này e !’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo g. 24Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia h thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. 25Nhưng trước đó, oNgười phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.
26“Và ocũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. 27Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thuỷ ập tới, tiêu diệt tất cả. 28Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót : thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. 29Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm, thì Thiên Chúa i khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. 30Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.
31“Ngày ấy, oai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại k. 32Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. 33oAi tìm cách giữ l mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn m được mạng sống. 34Thầy nói cho anh em biết : đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại n. 35oHai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 36o oHai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” 37Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su : “Thưa Thầy, ở đâu vậy p ?” Người nói với các ông : “oXác nằm đâu, diều hâu tụ đó q.”
Dụ ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy
18
1Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí r. 2Người nói : “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông : ‘Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.’ 4Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng s : ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc t.’”
6Rồi Chúa u nói : “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó ! 7Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa v lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi x ? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ y. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng a ?”
Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế b
9Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác : 10“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11Người Pha-ri-sêu đứng thẳng c, nguyện thầm rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác : trộm cắp, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con d.’ 13Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi đ.’ 14Tôi nói cho các ông biết : người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi e ; còn người kia thì không g. Vì ophàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên h.”
oĐức Giê-su và các trẻ em
15Người ta còn đem cả trẻ thơ đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng i. Thấy vậy, các môn đệ la rầy chúng. 16Nhưng Đức Giê-su gọi chúng lại mà nói : “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 17Thầy bảo thật anh em : Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào k.”
oNgười thủ lãnh giàu có
18Có một thủ lãnh l hỏi Đức Giê-su : “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp m ?” 19Đức Giê-su đáp : “Sao ông nói tôi nhân lành ? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 20Hẳn ông biết các điều răn : oChớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, hãy thờ cha kính mẹ n.” 21Ông ta nói : “Tất cả những việc đó o, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 22Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông : “Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 23Nghe vậy, ông ta buồn lắm, vì ông rất giàu.
oNgười giàu có khó vào Nước Thiên Chúa
24Đức Giê-su nhìn ông ta và nói : “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao p ! 25Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26Những người nghe Đức Giê-su nói liền hỏi : “Thế thì ai có thể được cứu ?” 27Người đáp : “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.”
oPhần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su
28Ông Phê-rô thưa : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ những gì là của mình q mà theo Thầy.” 29Người đáp : “Thầy bảo thật anh em : chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ r, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, 30mà lại không được gấp bội s ở đời này t và sự sống vĩnh cửu u ở đời sau.”
oĐức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba v
31Đức Giê-su kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông : “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất x. 32Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. 33Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” 34Nhưng các ông không hiểu gì cả ; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói y.
oĐức Giê-su chữa người mù tại Giê-ri-khô a
35Khi Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 36Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. 37Họ báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó. 38Anh liền kêu lên rằng : “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít b, xin rủ lòng thương tôi !” 39Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi ; nhưng anh càng kêu lớn tiếng : “Lạy Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi !” 40Đức Giê-su dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi : 41“Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh ta đáp : “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” 42Đức Giê-su nói : “Anh nhìn thấy đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” 43Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, ovừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa c.
Ông Da-kêu d
19
1Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. 2Ở đó có một người tên là Da-kêu ; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. 3Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông : “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” 6Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau : “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ đ !” 8Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn e.” 9Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng g : “Hôm nay h, ơn cứu độ đã đến cho nhà này i, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham k. 10Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất l.”
oDụ ngôn mười nén bạc m
11Khi dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giê-su lại kể thêm một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi n. 12Vậy Người nói : “Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền o, rồi trở về p. 13Ông gọi mười người q trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc r và nói với họ : ‘Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.’ 14Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng : ‘Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi s.’
15“Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu t. 16Người thứ nhất đến trình : ‘Thưa ngài u, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.’ 17Ông bảo người ấy : ‘Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi ! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành v.’ 18Người thứ hai đến trình : ‘Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén.’ 19Ông cũng bảo người ấy : ‘Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.’
20Rồi người thứ ba đến trình : ‘Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. 21Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo x.’ 22Ông nói : ‘Hỡi đầy tớ tồi tệ ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. 23Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng ? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ !’ 24Rồi ông bảo những người đứng đó : ‘Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén.’ 25Họ thưa ông : ‘Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi y !’ 26– ‘Tôi nói cho các anh hay : ophàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm ; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi a.
27“Còn bọn thù địch của tôi kia, onhững người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi b.’”
V. ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
oĐức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Mê-si-a c
28Nói những lời ấy xong, Đức Giê-su đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem d. 29Khi đến gần làng Bết-pha-ghê đ và làng Bê-ta-ni-a e, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo : 30“Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi. 31Nếu có ai hỏi : ‘Tại sao các anh cởi lừa người ta ra’, thì cứ nói : ‘Chúa g có việc cần dùng !’ 32Hai người được sai liền ra đi và thấy y như Người đã nói. 33Các ông đang cởi dây lừa, thì những người chủ nói với các ông : “Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra ?” 34Hai ông đáp : “Chúa có việc cần dùng.”
35Các ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và giúp Người cỡi lên h. 36Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường. 37Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu i, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa k, vì các phép lạ họ đã được thấy l. 38Họ hô lên : Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa m ! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời n !
Đức Giê-su tán thành việc các môn đệ hoan hô Người
39Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ o !” 40Người đáp : “Tôi bảo các ông : họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên p !”
Đức Giê-su thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem
41Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương 42mà nói : q “Phải chi ngày hôm nay r ngươi cũng nhận ra s những gì đem lại bình an cho ngươi ! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. 43Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. 44Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm t.”
oĐức Giê-su đuổi những người đang buôn bán trong Đền Thờ
45Đức Giê-su vào Đền Thờ u, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán v 46và nói với họ : “Đã có lời chép rằng : Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện x, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp y !”
Đức Giê-su giảng dạy tại Đền Thờ
47Hằng ngày a, Người ogiảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân b cũng vậy. 48Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người c.
oCâu hỏi về quyền bính của Đức Giê-su d
20
đ1Một hôm e, đang khi Đức Giê-su giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan báo Tin Mừng, thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến 2và nói với Người rằng : “Xin ông cho chúng tôi biết : ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy g ? Hay ai là người đã cho ông quyền ấy ?” 3Đức Giê-su đáp : “Tôi cũng vậy, tôi hỏi các ông một điều, xin nói cho tôi biết : 4phép rửa của ông Gio-an là do Trời h hay do người ta ?” 5Họ liền bàn tính với nhau : “Nếu mình nói : ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại : ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy ?’ 6Còn nếu mình nói : ‘Do người ta’, thì toàn dân sẽ ném đá mình, vì họ xác tín rằng ông Gio-an là một ngôn sứ i.” 7Họ mới trả lời là họ không biết do đâu k. 8Đức Giê-su liền bảo họ : “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”
oDụ ngôn những tá điền sát nhân
9Rồi Đức Giê-su bắt đầu kể cho dân nghe dụ ngôn này l : “Có người kia trồng được một vườn nho m và cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa một thời gian khá lâu.
10“Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để chúng nộp hoa lợi vườn nho cho anh đem về. Nhưng bọn tá điền đánh anh ta rồi đuổi về tay không. 11Ông lại sai một đầy tớ khác, nhưng họ cũng đánh anh ta, hạ nhục, rồi đuổi về tay không. 12Ông còn sai thêm một người thứ ba n, nhưng họ cũng đánh trọng thương, rồi quăng ra ngoài. 13Ông chủ vườn nho mới nói : ‘Ta phải làm gì đây o ? Ta sẽ phái người con yêu dấu của ta p, biết đâu chúng sẽ nể con ta.’ 14Nhưng vừa thấy cậu, bọn tá điền liền bàn nhau : ‘Đứa thừa tự đây rồi ! Ta giết quách nó đi, rồi gia tài sẽ về tay ta.’ 15Thế là chúng quăng cậu ra bên ngoài vườn nho, rồi giết đi q.
“Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì chúng ?16Ông sẽ đến tru diệt các tá điền ấy, rồi giao vườn nho cho người khác.” Nghe vậy, họ nói : “Mong đừng có chuyện ấy r !” 17Nhưng Đức Giê-su đưa mắt nhìn họ và nói : “Vậy câu Kinh Thánh này có nghĩa gì :
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ,
lại trở nên đá tảng góc tường s ?
18“Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương ; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt t.”
19Ngay giờ đó, các kinh sư và thượng tế tìm cách tra tay bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân u. Quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy.
oNộp thuế cho Xê-da
20Họ rình rập v và sai một số người giả bộ công chính x đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn. 21Những người này hỏi Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai y, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối a của Thiên Chúa. 22Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?” 23Nhưng Đức Giê-su thấu suốt lòng xảo trá của họ, nên Người nói : 24“Cho tôi coi một quan tiền ! Quan tiền này mang hình và danh hiệu của ai đây ?” Họ đáp : “Của Xê-da.” 25Người bảo họ : “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
26Họ không tài nào bắt quả tang Người lỡ lời trước mặt dân ; nghe câu trả lời của Người, họ ngạc nhiên và làm thinh luôn.
oKẻ chết sống lại
27Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc b đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. 28Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này : Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình c. 29Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30Người thứ hai, 31rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ d là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ?”
34Đức Giê-su đáp : “Con cái đời này đ cưới vợ lấy chồng e, 35chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết g, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. 36Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần h. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại i. 37Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp k. 38Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống l, vì đối với Người, tất cả đều đang sống m.”
39Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói : “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm n.” 40Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa o.
oĐức Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít
41Nhưng Người hỏi họ p : “Sao người ta lại nói Đấng Ki-tô là Con vua Đa-vít ? 42Vì chính vua Đa-vít đã nói trong sách Thánh vịnh : Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi : Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 43để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con q.
44“Như vậy, vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng ; thế thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được ?”
oĐức Giê-su khiển trách các kinh sư
45Toàn dân đang nghe, thì Người nói với các môn đệ : 46“Anh em phải coi chừng những ông kinh sư r ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, othích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích chỗ s nhất trong đám tiệc. 47Họ onuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ t. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”
oHai đồng tiền nhỏ của bà goá
21
1Ngước mắt lên nhìn, Đức Giê-su thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. 2Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. 3Người liền nói : “Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng u ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”
oBài giảng về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem v. Nhập đề.
5Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp x và những đồ dâng cúng y, Đức Giê-su bảo : 6“Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào a.” 7Họ hỏi Người b : “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước c ?”
oNhững điềm báo trước
8Đức Giê-su đáp : “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt d, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đ đến nói rằng : ‘Chính ta đây’, và : ‘Thời kỳ đã đến gần’ e ; anh em chớ có theo họ. 9Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc g, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu.” 10Rồi Người nói tiếp h : “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ i. 11Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém ; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện k.
12“Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra l, thì người ta osẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường m và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. 13Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy n. 14Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. 15Vì chính Thầy o sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan p, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. 16Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em q. 17Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. 18Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. 19Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình r.
oGiê-ru-sa-lem bị vây hãm
20“Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm s, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành t. 21Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi u ; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác ; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành. 22Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm v. 23Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó !
Cơn khốn khổ. Thời của dân ngoại.
“Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này.24Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm x, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước y, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại a.
oNhững điềm lạ. Con Người quang lâm.
25“Sẽ có những điềm lạ b trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, omuôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển c. 27Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy oCon Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến d. 28Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc đ.”
oDụ ngôn cây vả
29Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn : “Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác e. 30Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi. 31Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa g đã đến gần. 32Thầy bảo thật anh em : thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra h. 33Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu i.
Phải tỉnh thức và cầu nguyện
34“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới k bất thần l chụp xuống đầu anh em, 35vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn m, hầu đủ sức n thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người o.”
Những ngày sau hết của Đức Giê-su
37Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ p ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. 38Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.
VI. CUỘC THƯƠNG KHÓ
oÂm mưu hại Đức Giê-su. Giu-đa tìm cách nộp Thầy.
22
1Lễ Bánh Không Men q, cũng gọi là lễ Vượt Qua, đã đến gần. 2Các thượng tế r và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giê-su, vì họ sợ dân s.
3Xa-tan t đã nhập vào oGiu-đa, cũng gọi là Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai. 4Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ u về cách thức nộp Người v cho họ. 5Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. 6Hắn ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông.
oChuẩn bị ăn lễ Vượt Qua
7Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. 8Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an x đi và dặn : “Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua y.” 9Hai ông hỏi : “Thầy muốn chúng con dọn ở đâu ?” 10Người bảo họ : “Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước. Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, 11thì các anh vào thưa với chủ nhà : ‘Thầy nhắn ông : Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu ?’ 12Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được trang bị a : các anh hãy dọn ở đó.” 13Các ông ra đi, thấy mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Ăn tiệc Vượt Qua b
14Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn c cùng với các Tông Đồ. 15Người nói với các ông : “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình d. 16Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ đ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn e trong Nước g Thiên Chúa.”
17Rồi Người nhận lấy chén h, dâng lời tạ ơn và nói : “Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, otừ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến i.”
oĐức Giê-su lập phép Thánh Thể
19Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói : “Đây là mình Thầy k, hiến tế vì anh em l. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy m.” 20Và tới tuần rượu cuối bữa ăn n, Người cũng làm như vậy và nói : “Chén này là Giao Ước Mới o, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.
oĐức Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy
21“Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy p. 22Đã hẳn oCon Người ra đi như đã ấn định q, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.” 23Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy.
Kẻ làm đầu phải hầu thiên hạ r
24s Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là ongười lớn nhất. 25Đức Giê-su bảo các ông : “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân t. 26Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất u, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. 27Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai ? Hẳn là người ngồi ăn chứ ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.
oPhần thưởng dành cho các Tông Đồ
28“Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan v. 29Vì thế, Thầy sẽ trao x Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy y, 30để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy a, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en b.”
Đức Giê-su tiên báo : ông Phê-rô sẽ chối Thầy, nhưng sẽ trở lại.
31Rồi Chúa nói c : “Si-môn, Si-môn ơi d, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo đ. 32Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin e. Phần anh, một khi đã trở lại g, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” 33Ông Phê-rô thưa với Người : “oLạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.” 34Đức Giê-su lại nói : “Này anh Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy.”
Giờ chiến đấu quyết liệt h
35Rồi Người nói với các ông : “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không ?” Các ông đáp : “Thưa không.” 36Người bảo các ông : “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy ; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua i. 37Vì Thầy bảo cho anh em hay : cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép : Người bị liệt vào hàng phạm pháp k. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất l.” 38Các ông nói : “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây.” Người bảo họ : “Đủ rồi m !”
oTại núi Ô-liu n
39Sau đó, Người đi ra núi Ô-liu như đã quen o. Các môn đệ cũng theo Người. 40Đến nơi, Người bảo các ông : “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ p.”
41Rồi Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện rằng : 42“Lạy Cha, nếu Cha muốn q, xin cất chén này r xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha s.” 43t Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người u. 44Lòng xao xuyến bồi hồi, nên Người càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.
45Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền v, 46Người liền nói với các ông : “Sao anh em lại ngủ ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”
oĐức Giê-su bị bắt
47Người còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người x. 48Đức Giê-su bảo hắn : “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao ?” 49Thấy việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi : “Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không ?” 50Thế rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. 51Nhưng Đức Giê-su lên tiếng : “Thôi, ngừng lại y.” Và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.
52Sau đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người : “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc a đến ? 53Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm b.”
oÔng Phê-rô chối Thầy
54Họ bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế c. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa. 55Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phê-rô đến ngồi giữa họ. 56Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói d : “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy !” 57Ông liền chối : “Tôi có biết ông ấy đâu, chị !” 58Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói : “Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng !” Nhưng ông Phê-rô đáp lại : “Này anh đ, không phải đâu !” 59Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết : “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Ga-li-lê e.” 60Nhưng ông Phê-rô trả lời : “Này anh, tôi không biết anh nói gì g !” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. 61Chúa quay lại nhìn ông h, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông : “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” 62Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
oĐức Giê-su bị đánh đập
63Những kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người i. 64Chúng bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng : “Nói tiên tri xem : ai đánh ông đó ?” 65Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.
oĐức Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng k
66Khi trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng l 67và hỏi : “Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói cho chúng tôi biết !” Người đáp : “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin ; 68tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời m. 69Nhưng từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng n.” 70Mọi người liền nói : “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao o ?” Người đáp : “Đúng như các ông nói p, chính tôi đây.” 71Họ liền nói : “Chúng ta cần gì lời chứng nữa ? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói !”
23
1Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô.
oĐức Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô
2Họ bắt đầu tố cáo Người rằng : “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da q, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa r.” 3Ông Phi-la-tô hỏi Người : “Ông là vua dân Do-thái sao ?” Người trả lời : “Chính ngài nói đó s.” 4Ông Phi-la-tô nói với các thượng tế và đám đông : “Ta xét thấy người này không có tội gì t.” 5Nhưng họ cứ khăng khăng nói : “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” 6Nghe nói thế, ông Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. 7Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông liền cho áp giải Người đến với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem u.
Đức Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê
8oVua Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. 9Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. 10Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. 11Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ v mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô. 12Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.
oĐức Giê-su lại ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô
13Bấy giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại x 14mà nói : “Các người nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các người, mà không thấy người này có tội gì, như các người tố cáo. 15Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta y. Và các người thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. 16Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra a.” 17b Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù. 18Nhưng tất cả mọi người đều la ó : “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi !” 19Tên này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người.
20Ông Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. 21Nhưng họ cứ một mực la lớn : “Đóng đinh ! Đóng đinh nó vào thập giá !” 22Lần thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ : “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác ? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 23Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.
24Ông Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. 25Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn c.
oTrên đường lên Núi Sọ
26Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su d. 27Dân chúng đi theo Người đông lắm đ, trong số đó có nhiều phụ nữ e vừa đấm ngực vừa than khóc Người. 28Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói : “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. 29Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói : ‘Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm g !’ 30Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non : Đổ xuống chúng tôi đi !, và với gò nổng : Phủ lấp chúng tôi đi h ! 31Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao i ?” 32Có hai tên gian phi k cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.
oĐức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá
33oKhi đến nơi gọi là “Đồi Sọ” l, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng m : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người n chia ra mà bắt thăm.
oĐức Giê-su bị nhục mạ
35Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo o : “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô p của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn q !” 36Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37và nói : “Nếu ông là vua dân Do-thái r thì cứu lấy mình đi !” 38Phía trên đầu Người, có bản án viết s : “Đây là vua người Do-thái.”
Người gian phi sám hối
39Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người : “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !” 40t Nhưng tên kia mắng nó : “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! 41Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” 42Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su : “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi u !” 43Và Người nói với anh ta : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng v.”
oĐức Giê-su trút hơi thở cuối cùng
44Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu x, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất y, mãi đến giờ thứ chín a. 45Mặt trời ngưng chiếu sáng b. oBức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa c. 46Đức Giê-su kêu lớn tiếng : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha d.” Nói xong, Người tắt thở.
Sau khi Đức Giê-su tắt thở
47oThấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng : “Người này đích thực là người công chính đ !” 48Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.
49Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê ; các bà đã chứng kiến những việc ấy e.
oMai táng Đức Giê-su
50Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. 51Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. 52Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 53Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. 54Hôm ấy là áp lễ g, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng h.
55Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.
56Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.
VII. SAU PHỤC SINH
oNgôi mộ trống
24
1i Ngày thứ nhất trong tuần k, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn l. 2Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su m đâu cả. 4Họ còn đang phân vân n, thì bỗng có hai người đàn ông o y phục sáng chói, đứng bên họ. 5Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói : “Sao các bà lại tìm Người Sống p ở giữa kẻ chết ? 6Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi q. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê r, 7là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.”
Các Tông Đồ không tin lời các phụ nữ
8Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ s ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. 11Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.
oÔng Phê-rô ra mộ
12t Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.
oĐức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau u
13Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau v, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số x. 14Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người y. 17Người hỏi họ : “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu a.
18Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời : “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ b tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” 19Đức Giê-su hỏi : “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa : “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ c đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa d, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy.”
25Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng : “Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! 26Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao đ ?” 27Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ e, oNgười giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29Họ nài ép g Người rằng : “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ h. 31Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32Họ mới bảo nhau : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?”
33Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34Những người này bảo hai ông : “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn i.” 35Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh k.
oĐức Giê-su hiện ra với các Tông Đồ l
36Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo : “Bình an cho anh em m !” 37Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38Nhưng Người nói : “Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ? 39Nhìn chân tay n Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” 40o Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41Các ông còn chưa tin vì mừng quá p, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi : “Ở đây anh em có gì ăn không ?” 42Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng q. 43Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông r.
Những lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ
44Rồi Người bảo : “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh s đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” 45Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46và Người nói : t “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội u. 48Chính anh em là chứng nhân về những điều này.
49“Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa v. Còn anh em, hãy ở lại trong thành x, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống y.”
Đức Giê-su được rước lên trời a
50Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông b. 51Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời c. 52Bấy giờ các ông bái lạy Người d, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa đ.
DẪN NHẬP TIN MỪNG LU-CA
Mở đầu Lu-ca : Lời tựa
Tin Mừng theo thánh Lu-ca là cuốn thứ ba trong bốn sách Tin Mừng. Cuốn này có một điểm đặc biệt khác với hai cuốn kia trong bộ Nhất Lãm, là có lời tựa gửi cho “Thê-ô-phi-lô”, được viết như các tác phẩm viết bằng tiếng Hy-lạp thời bấy giờ.
Từ Hy-lạp “Thê-ô-phi-lô” chỉ người yêu mến Thiên Chúa hay là bạn hữu của Thiên Chúa. Nhưng từ này cũng là một tên riêng, có lẽ trong Lu-ca đây là tên của một nhân vật có địa vị xã hội và đóng một vai trò chính trị thời bấy giờ, hoặc có cảm tình với Ki-tô giáo, hoặc muốn tìm hiểu giáo lý của đạo mới đang được truyền giảng.
Trong lời tựa, tác giả nói rõ chủ đề, phương pháp và mục đích cuốn sách. Ông trình bày các biến cố xảy ra vào thời Giáo Hội bắt đầu công cuộc rao giảng. Để làm việc này, tác giả đã điều tra kỹ lưỡng nơi các nhân chứng đầu tiên và xếp đặt lại các sự kiện cho có thứ tự hầu cung cấp cho ông Thê-ô-phi-lô một bản tường thuật xác đáng theo lối các sử gia đương thời (x. 3,1-2). Nhưng lịch sử mà tác giả muốn tường thuật ở đây là lịch sử thánh, khác nghĩa với lịch sử thông thường, và mục đích của lịch sử này là trình bày ý nghĩa của các sự kiện đối với đức tin, một đức tin được ánh sáng của mầu nhiệm phục sinh và đời sống của Giáo Hội soi dẫn.
Thánh Lu-ca, tác giả cuốn Tin Mừng này là một thầy thuốc, quê gốc ở An-ti-ô-khi-a, thủ phủ tỉnh Sy-ri thuộc đế quốc La Mã và là người thông thạo tiếng Hy-lạp – điều đã được thể hiện rõ qua các tác phẩm của ông. Trong một số bản thảo Kinh Thánh sơ khai, ông còn được gọi là Lucius và Lucanus. Có một số ý kiến phỏng đoán rằng lúc đầu ông là một người lương dân theo ngoại giáo và đã hoán cải nhờ lời rao giảng của Thánh Phao-lô tại An-ti-ô-khi-a; trong khi những người khác cho rằng ông vốn là một người Do-thái và là một trong số bảy mươi hai môn đệ của Chúa Giê-su (Lc 10,1). Theo Thánh Hi-pô-li-tô và Thánh Ê-pi-pha-ni-ô, Thánh Lu-ca thuộc Nhóm Bảy Mươi Hai nhưng đã bỏ Chúa vì lời dạy của Người trong Ga 6,66; sau khi được nghe Thánh Phao-lô rao giảng, ông đã quay trở lại Đạo.
Tuy nhiên, bỏ qua những dữ kiện không chắc chắn, chúng ta biết rằng Thánh Lu-ca là một môn đệ, bạn đồng hành và là cộng sự viên của Thánh Phao-lô. Ông cũng được nhắc đến trong các thư tín của ngài như: 2 Cr 8,18; Cl 4,14; 2 Tm 4,11. Theo một số ý kiến, cụm từ “Tin Mừng tôi loan báo” (2 Tm 2,8; Rm 2,16) mà Thánh Phao-lô sử dụng chính là nói về Tin Mừng theo Thánh Lu-ca. Mặc dù vậy, nhà truyền giáo đã không chỉ viết Tin Mừng dựa vào lời Thánh Phao-lô – người chưa bao giờ thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhưng còn dựa vào lời của các tông đồ khác nữa, như chính ông đã nói ở phần lời tựa. Vì thế, cuốn Tin Mừng này được viết dựa theo những gì ông được nghe, trong khi cuốn Công Vụ Tông Đồ được viết dựa theo những gì chính ông đã quan sát. Một số người tin rằng cả hai tác phẩm đã được hoàn thành vào năm cuối cùng trong lịch sử Công Vụ, tức là khoảng năm 63. Tuy nhiên, theo ý kiến chung được chấp nhận ngày nay, Thánh Lu-ca đã viết cuốn Tin Mừng của mình tại A-khai-a vào khoảng năm 53, mười năm trước khi viết Công Vụ Tông Đồ, nhằm chống lại những câu chuyện thêu dệt hoang đường liên quan đến Chúa Giê-su mà một số người đương thời cố gắng sử dụng để lừa gạt thiên hạ. Theo cha Calmet, có vẻ như Thánh Lu-ca chưa từng đọc Tin Mừng của Thánh Mát-thêu và Thánh Mác-cô. Trong cuốn Tin Mừng của mình, ông thường nhấn mạnh đến những công việc liên quan đến chức vụ tư tế của Chúa Giê-su. Do đó, các bậc tiền nhân đã sử dụng hình ảnh con bò, lấy từ thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1,10) để làm biểu tượng cho Tin Mừng Lu-ca với ngụ ý tượng trưng cho hy lễ.
Thánh Lu-ca sống đến 84 tuổi trong tình trạng độc thân trọn đời, ông bị đóng đinh tại Eloea, thuộc Peloponnesus, gần A-khai-a. Năm 357, theo lệnh của hoàng đế Constantius (337-361), hài cốt của thánh nhân đã được đưa về Nhà thờ các Tông đồ tại Constantinôpôli, cùng với hài cốt của Thánh An-rê và Thánh Ti-mô-thê. Khi nhà thờ này được sửa chữa theo lệnh của hoàng đế Justinian (482-565), những người xây cất đã phát hiện ra ba chiếc rương gỗ chưa hài cốt của ba vị thánh này. Theo Hồng y Caesar Baronius (1538-1607), phần đầu của Thánh Lu-ca đã được Thánh Grêgôriô đưa về Rô-ma vào năm 586.
Nói về Tin Mừng Lu-ca, cuốn sách này được tác giả viết theo ngôn ngữ Hy-lạp thuần túy hơn so với các tác phẩm của bất kỳ nhà lịch sử Giáo Hội nào. Tuy nhiên, nó cũng có một số từ Syriac hoặc lối diễn đạt mang những nét đặc trưng của ngôn ngữ La-tinh. Những trích dẫn Kinh Thánh mà Thánh Lu-ca sử dụng được lấy từ Septuagint chứ không phải từ bản văn Do-thái (Septuagint hay Bản Bảy Mươi là một bộ Kinh Thánh Cựu Ước theo tiếng Hy-lạp, được biên soạn từ thế kỷ III TCN và được sử dụng rộng rãi trong thời đại các tông đồ). Trong các thư tín của mình, Thánh Phao-lô thường trích dẫn Tin Mừng theo cách phù hợp nhất với Tin Mừng Lu-ca (ví dụ: 1 Cr 11,23-24; 15,5).
Dàn bài
Sau lời tựa, tác giả cũng theo một dàn bài đại khái giống như trong Mt và Mc :
– Thời thơ ấu
– Đức Giê-su chuẩn bị thi hành sứ mệnh
– Đức Giê-su rao giảng Tin Mừng tại miền Ga-li-lê
– Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem
– Đức Giê-su rao giảng tại Giê-ru-sa-lem
– Cuộc Thương Khó
– Sau Phục Sinh
Nhưng tác giả xếp đặt kỹ lưỡng và cẩn thận hơn nhằm cho thấy rõ được thời và nơi diễn ra lịch sử cứu độ. Ngoài ra, ông lại còn tỏ ra độc lập và khôn khéo khi tự ý bỏ điều này thêm điều kia và thay đổi thứ tự các biến cố cho hợp với quan niệm của mình hơn.
I. Thời thơ ấu : Ông Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su sinh ra và sống ẩn dật (1,5 – 2,52)
Chỉ riêng Lc mới có đoạn này. Các bài tường thuật trong đoạn này làm nổi bật song song hai khuôn mặt: Đức Giê-su và ông Gio-an Tẩy Giả, và cố tình cho thấy khuôn mặt ông Gio-an rập theo khuôn mặt Đức Giê-su. Những bài ấy còn nhấn mạnh đến mầu nhiệm Đức Giê-su xuyên qua một chuỗi những thông điệp siêu nhiên công bố Người đầu thai bởi quyền năng Thánh Thần, Người là Thánh, là Con Thiên Chúa (x. 1,35), là Đấng Cứu Thế, là Đấng Ki-tô và là Đức Chúa (x. 2,11), là ơn cứu độ Thiên Chúa ban, là ánh sáng muôn dân (x. 2,30-32), nhưng cuối cùng bị đám đông dân Người chối bỏ (x. 2,34). Vậy để mở đầu Tin Mừng, trước khi mặc khải từng giai đoạn của mầu nhiệm Đức Giê-su, những trình thuật này cấu tạo một thứ lời tựa có tính Ki-tô học, có thể so sánh với lời tựa trong sách Tin Mừng theo thánh Gio-an (x. Ga 1,1-18).
II. Đức Giê-su chuẩn bị thi hành sứ mệnh (3,1 – 4,13)
Như trong Mt và Mc, phần này đề cập đến sứ mệnh của thánh Gio-an Tẩy Giả, biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa và lần đầu tiên đánh bại những cám dỗ của Xa-tan. Nhưng Lc tách biệt rõ ràng thời đại của ông Gio-an -còn thuộc về Cựu Ước– và thời đại của Đức Giê-su (x. 3,20+). Lc làm nổi bật biến cố Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a sau khi Người chịu phép rửa (x. 3,22+). Gia phả Đức Giê-su đi ngược lên tới A-đam, cho thấy rõ Đức Giê-su liên đới với toàn thể nhân loại (x. 3,23-38). Câu kết bài trình thuật Đức Giê-su chịu cám dỗ (x. 4,13) tiên báo trận chiến quyết liệt trong cuộc Thương Khó của Người.
III. Đức Giê-su rao giảng tại miền Ga-li-lê (4,14 – 9,50)
Tất cả giai đoạn này diễn ra ở Ga-li-lê (x. 23,5 ; Cv 10,37), khác với Mt 15,21 ; 16,13 và Mc 7,24.31 ; 8,27. Mở đầu, Lc nói về bài giảng của Đức Giê-su trong hội đường Na-da-rét (x. 4,16-30). Bài giảng này khai mào cho tất cả Tin Mừng tiếp theo : loan báo ơn cứu độ dựa vào Kinh Thánh và được Thần Khí linh hứng, gợi ý dân ngoại cũng được ơn cứu độ, cho biết trước Đức Giê-su bị đồng bào của Người chối bỏ và mưu toan hãm hại, và cuối cùng tường thuật các hành động (nhất là các phép lạ) và các lời giảng dạy của Người. Nhờ vậy, các môn đệ bắt đầu hiểu được đôi chút về thân thế của Người.
Phần này gồm ba đoạn :
– đoạn thứ nhất (4,16 – 6,11) theo khá sát thứ tự trong Mc 1,16 – 3,6, và cho thấy Đức Giê-su đối diện với quần chúng, với các môn đệ đầu tiên, với các đối thủ qua các phép lạ và những cuộc tranh luận,
– đoạn thứ hai (6,12 – 7,50), không có trong Mc nhưng có trong Mt tản mạn ở nhiều chỗ, mở đầu bằng việc tuyển chọn Nhóm Mười Hai và chú trọng trước hết đến lời Đức Giê-su dạy các môn đệ trong bài giảng về các mối phúc thật,
– đoạn thứ ba (8,1 – 9,50) cũng giống như Mc 4,1 – 9,40, nhưng thiếu phần song song với Mc 6,45 – 8,26. Đoạn này nói đến hoạt động của Nhóm Mười Hai được cộng tác vào sứ mệnh của Đức Giê-su. Nhóm được nêu tên ngay ở Lc 8,1. Các ông được biết những mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa thay vì chỉ nghe được dụ ngôn (x. 8,10). Những phép lạ tiếp theo làm cho các ông tự đặt câu hỏi : “Vậy Người là ai ?” (8,25). Sau đó, các ông được sai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa (x. 9,1-6) và được tích cực tham gia vào việc làm cho bánh hoá ra nhiều (x. 9,12). Cuối cùng, Đức Giê-su có thể buộc các ông phải có lập trường về bản thân Người, và thánh Phê-rô tuyên xưng Người là “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (9,20). Liền sau đó, Đức Giê-su đi sâu vào mầu nhiệm của Người: Người là Đấng Mê-si-a phải bị giết chết (x. 9,22), và Chúa Cha, trong vinh quang ngày Hiển Dung, sẽ tuyên bố trước mặt các ông Người là Con yêu dấu (x. 9,35). Nhưng các ông được lệnh phải giữ bí mật không được tiết lộ cho ai biết Người là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa.
IV. Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem (9,51 – 19,27)
Phần này dài nhất và cũng độc đáo nhất trong tác phẩm Lc. Nhiều tư liệu đã có sãn đó đây trong Mt và Mc, nhưng chỉ có Lc trình bày những tư liệu đó trong khuôn khổ một cuộc hành trình, vì đối với Lc, Giê-ru-sa-lem là trung tâm điểm ơn cứu độ : Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để hoàn thành ơn cứu độ (sách Tin Mừng), sau này các Tông Đồ sẽ từ Giê-ru-sa-lem mang ơn cứu độ đó cho đến tận cùng trái đất (sách Công Vụ).
Mở đầu là một câu trang trọng hướng cuộc hành trình của Đức Giê-su về biến cố vượt qua đang tiến tới giai đoạn hoàn tất (x. 9,51). Người lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, nơi công trình cứu độ phải được thực hiện. Thật ra, cuộc hành trình này không theo lộ trình địa lý (10,13-15 và 13,31-33 có vẻ còn diễn ra tại Ga-li-lê ; còn 13,34-35 thì cho hiểu rằng Đức Giê-su đã rao giảng tại Giê-ru-sa-lem). Đây chỉ là một khuôn khổ được tác giả dàn dựng để gom tụ tư liệu của mình dưới ánh sáng của cuộc vượt qua đang sắp được hoàn thành.
Trong suốt phần này, lời nói của Đức Giê-su được trọng hơn các phép lạ, và lời khuyến dụ hơn việc trình bày mầu nhiệm của Người (trừ 10,21-24 ; 12,49-50 ; 18,31-33 và 19,12-15). Người vẫn ngỏ lời với Ít-ra-en : cuộc đối chất giữa Người với nhóm Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thật là gay gắt (x. 11,37-52) ; Người kêu gọi dân Người ăn năn trở lại (x. 12,51 – 13,9) và nghĩ tới trường hợp lời kêu gọi của Người bị từ chối (x. 13,23-35 ; 14,16-24). Người quay về phía các môn đệ, xác định cho các ông biết sứ mệnh của mình (x. 9,52 – 10,20), kêu mời các ông cầu nguyện (x. 11,1-13) và từ bỏ chính mình (x. 12,22-34.51-53 ; 14,26-33 ; 16,1-13 ; 18,28-30). Một phần lớn những lời dạy dỗ các môn đệ nhắm đến hoàn cảnh Người không còn hiện diện giữa các ông nữa, tức là thời gian Người lên Giê-ru-sa-lem, được “rước” đi, nên các ông phải cầu xin Thánh Thần (x. 11,13) và tuyên xưng Thầy mình trước mặt thiên hạ (x. 12,1-12), phải chờ đợi ngày Người trở lại (x. 12,35-40 ; 17,22 – 18,8 ; 19,11-27), và chăm lo cho anh em mình trong cộng đoàn (x. 12,41-48).
Câu Lc 18,15 nối lại trình thuật của Mt (19,15) và Mc (10,13). Nhưng ở phần cuối, Lc thêm bài tường thuật ông Da-kêu được ơn cứu độ và nhất là dụ ngôn các nén bạc (x. 19,1-10.11-27). Dưới ngọn bút của tác giả, bài dụ ngôn này như chuẩn bị cho cuộc đối đầu bi thảm giữa Giê-ru-sa-lem và vị vua mà thành đó từ chối không nhìn nhận (x. 19,11+).
V. Đức Giê-su rao giảng tại Giê-ru-sa-lem (19,28 – 21,38)
Đây là giai đoạn thứ ba trong sứ mệnh của Đức Giê-su. Giai đoạn này cho thấy Đức Giê-su hoàn thành công trình cứu độ của Người tại Giê-ru-sa-lem – được coi là tiêu biểu cho Ít-ra-en đối diện với Đức Giê-su trong thảm kịch thập giá. Tác giả nhấn mạnh đến điểm này trong màn đầu, quang cảnh Đức Giê-su khải hoàn vào thành (x. 19,29-48) : Người tiến vào thành như một vì vua (x. 19,35-38) ; Người khóc thương thành vì thành từ chối không đón nhận Người (x. 19,41-44) ; Người đuổi bọn con buôn ra khỏi đền thờ, nơi Người giảng dạy hằng ngày, để chứng tỏ uy quyền của Người tại đó.
Tác giả mô tả cuộc mặc khải của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem trong ba đoạn giống như Mt và Mc, nhưng thêm vào một số nét riêng.
Bài giảng trong đền thờ (x. 20 – 21) kết thúc bằng lời tiên báo cuộc phán xét thành Giê-su-sa-lem và ngày Con Người xuất hiện. Tác giả viết những lời này cho toàn thể dân Ít-ra-en.
VI. Bài Thương Khó (22 – 23)
Bài này cũng theo một lược đồ như các Tin Mừng khác, nhưng bài tường thuật bữa Tiệc Ly thì có thêm những lời Đức Giê-su giảng dạy Nhóm Mười Hai về vai trò phục vụ của các ông, về địa vị của các ông trong Nước Trời mai sau, về hoàn cảnh mới của các ông sau khi Thầy đã ra đi (x. 22,24-38). Những đau khổ Đức Giê-su phải chịu càng làm nổi bật đức công chính của Người cũng như giá trị mẫu mực của cuộc Thương Khó Người phải chịu. Khi Đấng Mê-si-a bị hạ nhục cũng là lúc Vương quyền của Người trở thành hiện thực và được khẳng định (x. 22,69+ ; 23,37+).
VII. Sau Phục Sinh (24)
Các bài tường thuật về Chúa phục sinh (x. 24) đều được định vị ở Giê-ru-sa-lem. Những bài này không nhắc đến truyền thống cổ xưa về những lần hiện ra tại Ga-li-lê (x. Mt 26,32 ; 28,7.10.16-20 ; Mc 14,28 ; 16,7 ; Ga 21), có lẽ để giữ cho cân đối với sách Công vụ. Đây là những bài giải thích cuộc Thương Khó như con đường Thiên Chúa định để đưa Đức Ki-tô vào vinh quang của Người (x. c.26), theo lời Kinh Thánh đã chép (x. cc. 25-27,44-46) và Đức Giê-su cũng đã nhắc lại (x. c.7). Cuối cùng, Chúa Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một để phá tan mối hoài nghi của các ông (x. cc. 36-43) và trao cho các ông sứ mệnh làm nhân chứng (x. cc. 47-49). Sách Tin Mừng kết thúc bằng bài tường thuật đầu tiên về cuộc thăng thiên (x. c.51) chứng tỏ Đấng phục sinh là Đức Chúa (x. Cv 2,36).
Như vậy, toàn bộ Tin Mừng theo thánh Lu-ca cho thấy rằng mầu nhiệm Đức Giê-su đã được mặc khải một cách tiệm tiến, và những người phải rao giảng mầu nhiệm ấy, tức là các Tông Đồ, đã cần một thời gian dài để từ từ tiếp cận và thấu hiểu mầu nhiệm của Người.
Tác giả
Vì sách Công Vụ cũng bắt đầu bằng một lời tựa gửi cho nhân vật Thê-ô-phi-lô và nhắc đến quyển sách đầu tiên, nơi tác giả đã nói về “tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy” (Cv 1,1), nên ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, người ta đã kết luận rằng sách Tin Mừng và sách Công Vụ là do cùng một tác giả. Khoa chú giải hiện đại đã công nhận điểm này trên cơ sở ngôn ngữ và tư tưởng của cả hai tác phẩm là đồng nhất, cũng như mục tiêu của cả hai cân đối với nhau.
Đàng khác, theo một truyền thống đã có từ cuối thế kỷ thứ II (thánh I-rê-nê), tác giả Tin Mừng thứ ba chính là người thầy thuốc Lu-ca mà thánh Phao-lô đã nói tới ở Cl 4,14 ; Plm 24 ; 2 Tm 4,11.
Về quê quán và năm sinh của tác giả, người ta không được rõ, chỉ biết rằng tác giả được ơn trở lại ở An-ti-ô-khi-a và qua đời bên Hy-lạp.
Tác giả không được nhìn tận mắt Đức Giê-su mà chỉ tin nhận Người là Chúa vinh quang qua khuôn mặt của Đấng phục sinh. Nơi tác giả, đức tin của người được ơn trở lại hướng dẫn cái nhìn của nhà sử học, và đã giúp ông khám phá Đức Ki-tô Giê-su trong trẻ thơ thành Bê-lem, trong cậu thiếu niên ở đền thờ lúc 12 tuổi, trong vị ngôn sứ hướng cả đời mình về Giê-ru-sa-lem, nơi mà công trình cứu độ được hoàn thành.
Thánh Lu-ca cũng là một con người đặc biệt tế nhị, nhất là khi nói về Đức Giê-su : ngài tránh những lối nói hơi thô của Mc (x. Lc 4,1 ; 8,24.28.45 …) và dành cho Người một danh xưng đặc biệt trên môi các môn đệ (x 5,5+). Ngài được tặng cho danh hiệu là “văn sĩ ca tụng lòng nhân từ và khoan dung của Đức Ki-tô”. Thánh Lu-ca lấy làm cảm kích về bản tính nhân loại tuyệt vời của một vì Thiên Chúa đã tỏ ra xao xuyến trước tình cảnh một bà mẹ vừa mất đứa con duy nhất ; một vì Thiên Chúa làm bạn với hạng tội lỗi bị người ta xa lánh ; một vì Thiên Chúa cảm thông với giới phụ nữ bị người ta khinh bỉ ; một vì Thiên Chúa gần gũi với đám dân nghèo bị người ta chà đạp.
Là thầy thuốc, nên tác giả viết về bệnh tật một cách chính xác, và cũng vì thế biết rung cảm trước những khổ đau nơi thân xác con người. Phải chăng vì vậy, trong tác phẩm của mình, tác giả đã dành cho những người nghèo khổ, ốm đau, tội lỗi và phụ nữ một chỗ đặc biệt, với những lời lẽ đầy ngọt ngào an ủi ?
Tác giả lại còn có tài văn chương, thông thạo văn hoá Hy-lạp. Tác phẩm có nhiều ưu điểm : lời văn sáng sủa, mạch lạc, nhuần nhuyễn một cách linh động theo những đề tài khác nhau, và chứng tỏ một bút pháp thật điêu luyện ở một vài đoạn (x. 1,1-4 ; 24,13-35). Cách trình bày có trật tự và nghệ thuật, phác hoạ nét độc đáo của cốt truyện. Ngôn ngữ Lc phong phú nhất trong tất cả các sách Tân Ước.
Độc giả
Độc giả được nêu tên là ông Thê-ô-phi-lô, một nhân vật tượng trưng và cũng có thể là một nhân vật thiết thực. Dù sao, đó cũng là một nhân vật tiêu biểu cho những người Ki-tô hữu gốc ngoại giáo và theo văn hoá Hy-lạp. Có nhiều bằng chứng yểm trợ cho lời xác quyết này như văn từ, những lời giải thích về địa dư nước Pa-lét-tin (x. 1,26 ; 2,4 ; 4,31 ; 8,26 ; 23,51 ; 24,13) và tập tục người Do-thái (x. 1,9 ; 2,23-24.41-42 ; 22,1.7) ; sự ân cần đối với dân ngoại, những chỗ nhấn mạnh cho thấy Chúa Giê-su phục sinh có một thể xác thật sự (x. 24,39-43), điều mà người Hy-lạp rất khó chấp nhận (x. Cv 17,33 ; 1 Cr 15).
Như vậy, độc giả của Tin Mừng thứ ba là cả người trong đạo lẫn người ngoài đạo. Người trong đạo thì nhờ đọc Tin Mừng này mà thêm hiểu biết về Đức Ki-tô và đạo lý của Người. Còn người ngoài đạo thì, nếu đọc sách này với tinh thần vô tư và khách quan, sẽ nhận thấy Ki-tô giáo không phải là một phong trào chính trị hay một giáo phái dành cho một thiểu số, mà là một niềm tin “công giáo”, nghĩa là có thể truyền đạt đến cho mọi người ở khắp mọi nơi.
Sau cuộc giết hại các tín hữu vào năm 64 do bạo chúa Nê-rô, nhiều người có thiên kiến và tỏ ra ác cảm với Ki-tô giáo. Nhưng nhờ đọc sách này, họ sẽ thấy rằng Đức Ki-tô là người vô tội. Tính chất vô tội này đã được tổng trấn Phi-la-tô, viên toàn quyền của Rô-ma ở Pa-lét-tin, xác nhận khi ông nói : “Ta xét thấy người này không có tội gì đáng chết” (Lc 23,4.15.22).
Thời gian và nơi biên soạn
Muốn biết thời gian biên soạn sách Tin Mừng thứ ba, phải dựa vào thời kỳ Giê-ru-sa-lem bị quân đội Rô-ma tàn phá, dưới quyền chỉ huy của tướng Ti-tô. Mt và Mc có nói đến quang cảnh này, nhưng đặt nó vào viễn tượng cánh chung, còn Lc thì tách rời ra. Dường như tác giả có biết thời kỳ Giê-ru-sa-lem bị bao vây và tàn phá vào năm 70 (x. 19,43-44 ; 21,20.24). Như vậy, sách phải được viết sau thời gian này ; các nhà chú giải hiện nay cho là vào thập niên 80-90, nhưng cũng có một số khác lại cho là sớm hơn.
Về nơi biên soạn, không thấy truyền thống để lại dấu vết gì, nên không thể nói chính xác được là viết ở đâu, tuy có dư luận cho rằng sách được viết ở A-khai-a hoặc bên Ai-cập. Nhưng không lấy gì làm chắc và có lẽ dư luận đó muốn nói rằng Tin Mừng được loan báo chứ không phải được biên soạn tại hai nơi ấy.
Mục đích và phương pháp biên soạn
Trong lời tựa, thánh Lu-ca đã giải thích điều ngài muốn làm và cách thế tiến hành công việc. Ngài cho biết sẽ “tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta”, có nghĩa là tường thuật cuộc đời Đức Giê-su và thời kỳ thành lập Giáo Hội. Tác giả không phải là người đầu tiên làm công việc này mà đã có những vị đi trước (có lẽ ám chỉ thánh Mác-cô), nên người sẽ dựa vào “truyền thống” của “những người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa”, nghĩa là những người đang rao giảng Tin Mừng và trước hết là các Tông Đồ.
Việc biên soạn rất công phu, sử dụng các dữ kiện của truyền thống, khiến một số độc giả đặt vấn đề về tính lịch sử của Lc. Vấn đề này phức tạp và đòi hỏi phải nghiên cứu cả phương pháp được dùng cho sách Công vụ các Tông Đồ (x. Công vụ). Trong khuôn khổ việc nghiên cứu Tin Mừng này, trước hết, ta biết rằng tác giả đã tuyên bố ý định “cẩn thận tra cứu” và “tuần tự viết ra” (1,3) ; ta cũng có thể nhìn nhận giá trị của một số lớn những điều tác giả đưa ra. Tuy nhiên, một đàng, tác giả nhìn “sự kiện Giê-su” với tất cả niềm tin của mình -điều mà các nhà sử học cho là một suy diễn cá nhân vượt quá ranh giới lịch sử . Đàng khác, khi tường thuật lời nói và việc làm của Đức Giê-su, tác giả quan tâm trước hết đến ý nghĩa của nó ; đôi lúc ông tỏ ra không kể gì đến thứ tự thời gian (x. 4,16-30 ; 5,1-11 ; 24,51) hoặc địa lý (x. 10,13-15 ; 13,34-35 ; 24,36-49) ; các đoạn riêng của Lc đều có ý nghĩa đặc biệt (x. 1 – 2 ; 4,16-30 ; 5,1-11 …). Mối quan tâm hàng đầu của tác giả không phải là mô tả cho chính xác các sự kiện như đã xảy ra, mà là công bố cuộc đời Đức Giê-su, coi đó chính là lịch sử cứu độ. Thánh nhân tự trao cho mình bổn phận “giải mã” các biến cố, và ngài đã làm điều đó trong ánh sáng của truyền thống Giáo Hội. Công trình của ngài là của tác giả một sách Tin Mừng.
Đạo lý
1. Vì có ý định viết thêm một cuốn sách thứ hai (Công vụ) để tường thuật công cuộc rao giảng của các Tông Đồ, nên tác giả Lu-ca phân biệt hai thời đại rõ ràng hơn Mát-thêu và Mác-cô : thời đại Đức Giê-su và thời đại Giáo Hội. Sách Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su chỉ hoạt động cho Ít-ra-en. Dĩ nhiên trong Lc, sứ điệp cứu thế có tính cách phổ quát, đại đồng, nhưng luôn luôn được ghi trong những đoạn nhắc về tương lai (x. 2,32 ; 3,6 ; 13,29 ; 14,16-24) hoặc qua những tiền ảnh, mô hình (x. 3,23-38 ; 4,25-27 ; 7,9 ; 8,39 ; 10,1 ; 17,11-19). Chỉ có Chúa phục sinh mới trao sứ mệnh đi đến với muôn dân (x. 24,47-48).
Sau đó, các Tông Đồ sẽ hoàn thành sứ mệnh này nhờ được ban Thánh Thần (24,49 ; x. 12,12). Nhưng trong Lc, chỉ có Đức Giê-su, Đấng đã nhập thể bởi Thánh Thần (x. 1,35), mới hành động với quyền năng của Thánh Thần (x. 3,22 ; 4,1.14.18 ; 10,21).
Trong bài tường thuật thời thơ ấu , ông Si-mê-on tiên báo Đức Giê-su sẽ bị nhiều người trong Ít-ra-en chối từ (x. 2,34-35). Lc cho thấy sự chối từ này ngày càng thêm rõ rệt, nhưng giai đoạn thập giá không phải là giai đoạn tối hậu, vì sau ngày Ngũ Tuần, các Tông Đồ còn kêu gọi các người Do-thái thành Giê-ru-sa-lem hồi tâm sám hối và nhận lãnh ơn cứu độ.
2. Bằng cách phân biệt rõ ràng thời đại Đức Giê-su và thời đại Giáo Hội, Lc muốn cho thấy rõ bàn tay Thiên Chúa tác động trong lịch sử loài người qua những giai đoạn kế tiếp nhau. Nhưng cách trình bày này không bao giờ làm cho tác giả quên rằng, trong Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa đã một lần dứt khoát ban ơn cứu độ cho loài người. Vì thế, ngay từ đầu, Lc đã nhấn mạnh rằng ơn cứu độ là cho ngày hôm nay (2,11 ; 3,22 ; 4,21 ; x. 5,26 ; 19,9 ; 23,43). Quả thật, ngay từ giây phút đầu, Đức Giê-su đã là Con Thiên Chúa (1,35), là Đấng Cứu Độ (2,11 ; x. 1,69-71.77 ; 2,30 ; 3,6), là Đức Chúa (2,11 ; x. 7,13+ cho thấy Lc nhấn mạnh trên tước hiệu này) ; Người khởi đầu công cuộc rao giảng bằng lời loan báo Tin Mừng cứu độ dành cho người nghèo khổ, nhỏ hèn (4,18 ; x. 7,22 ; 10,21).
Khi mô tả thời đại Đức Giê-su, Lc đã nghĩ tới thời đại Giáo Hội. Hơn Mt và Mc, Lc thường khi gọi Nhóm Mười Hai là Tông Đồ (x. 6,13+), nói về nhiệm vụ các ngài trong các cộng đoàn (x. 9,12 ; 12,41-46 ; 22,14-38) và những người sẽ trợ giúp các ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng (10,1 ; x. 8,2-3.39).
Hơn nữa, trong giáo huấn của Đức Giê-su, Lc cố ý chỉ cho thấy đâu là luật sống “hằng ngày” của người môn đệ (x. 9,23 ; 11,3 ; 17,4). Tác giả
– đặt trọng tâm ở việc sám hối ăn năn (5,32 ; 13,1-5 ; 15,4-32 và nhất là ở 7,36-50 ; 19,1-10 ; 23,39-43), ở lòng tin (x. 1,20.45 ; 7,50 ; 8,12-13 ; 17,5-6 ; 18,8 ; 22,32 ; 24,25) được diễn đạt trong lời tuyên xưng danh Chúa (x. 12,2-12 ; 21,12-19),
– nhấn mạnh việc cầu nguyện (x. 11,1-13 ; 18,1-8 ; 21,36 ; 22,40-46) như Đức Giê-su thường cầu nguyện (x. 3,21+) ; bài học bác ái yêu thương được coi là bài học nồng cốt dành cho môn đệ (6,27-42 ; x. 10,25-37 ; 17,3-4),
– thường hay đề nghị biểu lộ đức ái trong việc bố thí (x. 11,41+), cũng là cách lý tưởng thể hiện thái độ dứt khoát từ bỏ tiền tài (x. 5,11+ ; 14,33+).
Những đòi hỏi này rất nghiêm trọng, nhưng Lc chiếu toả niềm vui nhiều hơn Mt và Mc, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa gieo rắc niềm vui : niềm vui
– trước những lời loan báo ơn cứu độ (x. 1,14.28.41.44 ; 6,23 ; 8,13),
– những lần Đức Giê-su xuất hiện như là Đấng Cứu Độ (x. 1,47 ; 2,11),
– trước các phép lạ (x. 10,17 ; 13,17 ; 19,37),
– khi Tin Mừng cứu độ được đón nhận (x. 10,21) và khi người có tội ăn năn hối cải (x. 15 ; 19,6),
– khi được thấy vinh quang của Đấng Phục Sinh (x. 24,52).
3. Đức Giê-su đã tiên báo rằng Người sẽ quang lâm vào thời sau hết : Lc đặt viễn tượng thời sau hết ở điểm thời đại Giáo Hội kết thúc (x. 12,35-48 ; 17,22-37 ; 18,8 ; 19,11-27 ; 21,5-36). Tuy nhiên Lc luôn nhấn mạnh những điều như :
– “ngày hôm nay” đã có ơn cứu độ,
– Đức Giê-su phục sinh là Chúa,
– Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong Giáo Hội,
nên trong Lc tính khẩn trương của cuộc quang lâm bị giảm đi (x. 17,23+). Niềm hy vọng nơi Lc chan chứa hoan lạc vì ơn cứu độ đã có được ngay hôm nay. Cũng thế, biến cố thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị tàn phá được Lc tiên báo nhiều lần (x. 19,27+) nhưng không có tính cách cánh chung nữa, mà chỉ là một biến cố lịch sử để trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ án giết chết Đức Giê-su.
Ngoài ra, chỉ nguyên bố cục trong Lc cũng có thể cho thấy quan niệm của tác giả về lịch sử cứu độ (xem Dàn bài).
Trong các sách Tin Mừng, có thể xem Lc là tác phẩm dễ đọc hơn hết và gần gũi nhất với độc giả thời nay. Những nét nổi bật về Đức Giê-su sẽ giúp họ tiếp cận “mầu nhiệm Giê-su” và học nơi Người như học bậc thầy dạy cho biết sống làm người, làm con Thiên Chúa, một bậc thầy rất đòi hỏi nhưng đồng thời nhân hậu, niềm nở và sãn sàng ban ơn cứu độ.
KHÁI QUÁT TIN MỪNG THEO THÁNH LU-CA
1. Lời tựa sách Tin Mừng
Chỉ Tin Mừng Lu-ca mới có lời mở đầu, giống như các sách Hy-lạp thời bấy giờ. Lời tựa gửi cho một người tên là Thê-ô-phi-lê. Ông này có vẻ là một nhân vật quan trọng. Sách Công Vụ Tông Đồ cũng mở đầu bằng một lời tựa và cũng gửi cho nhân vật này. Trong sách Công Vụ, tác giả mời nhân vật Thê-ô-phi-lê tham chiếu sách trước là sách Tin Mừng nói về mọi việc Đức Giê-su đã làm, và những điều Người đã dạy (1,1-2). Do đó, ngay từ sơ khai của Hội thánh, người ta đã kết luận sách Tin Mừng và sách Công Vụ đều có cùng một tác giả, Khoa chú giải Kinh thánh hiện nay cũng đồng ý như vậy, dựa vào sự đồng nhất của lời văn và ý tưởng trong hai tác phẩm cũng như ý định của tác giả. Sách Tin Mừng thì nhấn mạnh đến việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Người, còn sách Công Vụ thì nói về việc rao giảng mầu nhiệm này, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng cõi đất.
Trong lời tựa, tác giả cho biết đề tài, phương pháp và mục đích của sách, đồng thời trình bày công cuộc rao giảng của Hội thánh ở giai đoạn đầu. Tác giả đã tham khảo kỹ lưỡng truyền thống của các nhân chứng tiên khởi, và muốn đem ra trình bày một cách có thứ tự. Như vậy, ông Thê-ô-phi-lê sẽ có một bài tường thuật chắc chắn về các sự kiện ông nghe nói.
Lu-ca đã tự giới thiệu theo cách thức một sử gia như những người viết sử thời bấy giờ. Tuy nhiên, sử đây là thánh sử chứ không phải sử thường, nghĩa là chú ý cho thấy rõ ý nghĩa của các biến cố đối với đức tin, môt đức tin được mầu nhiệm Phục sinh và mầu nhiệm của Hội thánh soi dẫn.
2. Lịch sử cứu độ trong cách bố cục sách Tin Mừng.
Sách Tin Mừng Lu-ca cùng trình bày một lược đồ chung như hai sách Tin Mừng Mát-thêu và Mác-cô: có phần nhập đề rồi đến việc Đức Giê-su rao giảng ở Ga-li-lê, đoạn lên Giê-ru-sa-lem hoàn tất sứ mạng trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Nhưng sách của Lu-ca được bố cục kỹ lưỡng, nhằm làm nỏi bật những thời và những nơi đáng ghi nhớ trong lịch sử cứu độ.
2,1 Phần nhập đề (1.5-4-13)
Phần này gồm hai tiết rất khác nhau: tiết I kể lại giai đoạn thơ ấu của Đức Giê-su (1,5-2,52). Chỉ Lu-ca mới có bài tường thuật này. Tác giả kể chuyện ông Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su song hành với nhau và đặt ông Gio-an ở vị trí tùy thuộc Đức Giê-su. Lu-ca trình bày Đức Giê-su được thụ thai bởi phép Thánh Thần và là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và là Đức Ki-tô (2,11), là ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho loài người, là ánh sáng cho muôn dân nhưng sẽ bị đồng bào mình khước từ. Đặt ỏ đầu Tin Mừng, những lời khẳng định này thật là một bài tựa rất chí lý về Đức Ki-tô sánh được với bài tựa trong sách Tin Mừng theo thánh Gio-an.
Tiết II mở đầu sứ vụ của Đức Giê-su (3,1-4-4,13) Cũng như Mát-thêu và Mát-cô, Lu-ca nói đến sứ vụ của Ông Gio-an Tẩy giả, đến phép Rửa tại sông Gio-đan và cơn cám dỗ trên rừng vắng, nhưng phân biệt rõ thời của ông Gio-an Tẩy Giả với thời của Đức Ki-tô. Lu-ca nhấn mạnh đến trường hợp Đức Giê-su được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mê-si-a và nói tới tổ phụ A-đam để chứng tỏ Đức Giê-su gắn liền với toàn thể nhân lọai.
1,2 Phần I của sứ vụ Đức Giê-su (4,13-9,50)
Lu-ca đặt tất cả phần này ở Ga-li-lê (23,5; Cv 10,37) khác với Mát-thêu (15,21; 16,13) và Mác-cô (7,24.31; 8,27). Mở đầu là bài giảng của Đức Giê-su trong hội đường Na-da-rét, rồi đến các phép lạ và các lời dạy dỗ các môn đệ. Sau đó, tiết I (4,31-6,11) theo khá sát thứ tự bài tường thuật của Mc (1,16-3,6). Ở đây thấy nói đến cuộc tiếp xúc của Đức Giê-su với dân chúng, với các môn đệ lớp đầu, và với các thù địch qua các phép lạ và các cuộc tranh luận.
Tiết II (6,12-7,52) theo bài tường thuật của Mác-cô (4,1-9,50) nhưng không có đoạn nào tương đương với Mc 6,45-8,26 và kết hợp chặt chẽ Nhóm Mười Hai vào sứ vụ của Đức Giê-su. Nhóm này là những người được biết các mầu nhiệm về Nước Thiên Chúa, được sai đi để công bố Nước Thiên Chúa đã đến, được tích cực tham gia vào việc làm cho bánh hóa ra nhiều.
1,3 Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem (9,51-19,28)
Phần này được trình bày độc đáo nhất. Một số lớn những điều nói trong phần này đã thấy nói rải rác trong Mát-thêu.
Lu-ca mở đấu bằng một câu long trọng, hướng cuộc hành trình về biến cố Vượt Qua. Trong suốt phần này, lời giảng trội hơn các phép lạ và lời khuyên trội hơn lối trình bày về mầu nhiệm Đức Ki-tô.
1,4 Phần thứ ba trong sú vụ của Đức Giê-su (19,29-24,53)
Phần này kể lại công trình cứu chuộc được hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem. Giê-ru-sa-lem là thành tiêu biểu cho cuộc đối đầu giữa Ít-ra-en và Đức Giê-su. Lu-ca nhấn mạnh đến điểm này khi mô tả ngày Đức Giê-su khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem: Người đến như một vị hoàng đế, Người khóc thương thành vì thành không nhận biết Người, Người tỏ uy quyền khi đuổi bọn con buôn ra khỏi đền thờ là nơi Người thường giảng dạy. Mạc khải của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem cũng gồm ba tiết như trong Mát-thêu và Mác-cô, nhưng Lu-ca có thêm vào mấy nét riêng. Lời giảng dạy trong Đền thờ chấm dứt bằng lời loan báo Giê-ru-sa-lem sẽ bị xét xử và Con Người sẽ ngự đến.
Bài tường thuật cuộc Thương Khó (22-23) cũng theo một lược đồ như các sách Tin Mừng khác, nhưng sau bữa Tiệc ly còn thêm những lời nhắn nhủ Nhóm Mười Hai về tinh thần phục vụ, về vị trí của các ông trên Nước Trời sau này cũng như về hoàn cảnh mới của các ông sau khi Đức Giê-su ra đi (22,24-38). Các bài tường thuật về cuộc Phục sinh đều được đặt cả ở Giê-ru-sa-lem. Chúa Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một để làm cho các ông vững tin và giao cho các ông nhiệm vụ phải làm chứng về Người.
3. Thời của Chúa Giê-su và thời của Hội thánh
Tin Mừng Lu-ca cho thấy hành động của Đức Giê-su dành riêng cho Í-ra-en mà thôi. Chỉ khi từ trong đám kẻ chết trỗi dậy, Người mới truyền phải đi giảng đạo cho muôn dân. Trong các bài tường thuật về thời thơ ấu của Đức Giê-su, ông già Si-mê-on đã báo trước rằng một số lớn trong dân Ít-ra-en sẽ chối từ Người. Khi phân biệt thời của Đức Giê-su với thời của Hội thánh, Lu-ca muốn làm nổi bật các công trình của Thiên Chúa trong lịch sử.
Khi viết về thời của Đức Giê-su, Lu-ca cũng đã nghĩ đến thời của Hội thánh. Tác giả thường gọi Nhóm Mười Hai là Tông đồ và hay nhắc đến nhiệm vụ của các ông trong cộng đồng tín hữu, cũng như những người cộng tác với các ông trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Ngoài ra Lu-ca lại còn cho thấy trong các lời giảng của Đức Giê-su có cả một qui luật sống hàng ngày dành cho các môn đệ, đồng thời nhấn mạnh đến việc phải trở về với Thiên Chúa (5,32; 13,1-5; 15, 4-32; 18,8; 22,32; 24,25), phải có lòng tin (1,20.45; 7,50; 8,12-13; 17,5-6; 18,8; 22,32; 24,25). Lu-ca chú trọng đến sự cầu nguyện (11,1-13; 18,1-18, 21,36; 22, 40.46), lưu tâm đến bác ái và coi đó là bài học chính yếu Đức Giê-su dạy cho các môn đệ (6,27-42; 10,25-27; 17,3-4) cũng như cho rằng hình thức thực thi bác ái là bố thí (11,41; 12,33; 16,9; 19,8).
Đây là những đòi hỏi gắt gao, nhưng Lu-ca đã trình bày một cách khéo léo đến nỗi người ta cảm thấy vui mừng khi phải đáp ứng những đòi hỏi đó, như khi được nghe loan báo ơn cứu độ (1,14-28.41.44; 6,23; 8,13), khi được nhìn xem các phép lạ (1o,17; 13,17; 19,37), khi thấy một người tội lỗi trở lại, khi nghe tường thuật về cuộc Phục sinh (24,52)
Nhiều lần Đức Giê-su loan báo Người sẽ trở lại vào lúc chu kỳ lịch sử hoàn tất. Lu-ca dành viễn tượng này cho thời của Hội thánh vào giai đoạn cuối cùng (12,35-48; 17,22-37; 18,8; 19,11-27; 21, 5,36) Nhưng nhờ nhấn mạnh đến tính hiện thời của ơn cứu độ và hành động của Chúa Thánh Thần trong Hội thánh, nên ngài nói về ngày quang lâm khá bình thản (17,23; 19.11; 21,8-9). Nhiều lần ngài nói đến việc Giê-ru-sa-lem sẽ bị tàn phá (19,27.43.46; 21, 20,23; 23,28-31). Nhưng đó chưa phải là tận thế mà chỉ là một biến cố lịch sử, để phạt những người đã gây ra cái chết cho Đức Giê-su.
4. Vài nét đặc biệt của Lu-ca
Lu-ca cũng dùng nhiều tài liệu như Mát-thêu và Mác-cô, nhưng lại có nét đặc biệt riêng, như bài tường thuật về thời kỳ thơ ấu của Chúa Giê-su (1-2), các phép lạ (7,1-17; 13, 10-17; 14,1-6; 17, 12-190, những lần Chúa Giê-su hiện ra sau khi sống lại (24,13-35.36-53), dụ ngôn người xứ Sa-ma-ri (10,30-37), dụ ngôn người bạn bị quấy rầy trong lúc đêm khuya (11,5-8), dụ ngôn người phú hộ (12,16-21), dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn đồng tiền bị mất và người con hư hỏng (15,8-10.11-32), dụ ngôn người quản lý xảo quyệt (16,1-8), dụ ngôn ông nhà giầu và anh La-da-rô (16,19-31)
Lu-ca viềt văn Hy lạp trôi chảy, ngữ vựng phong phú, lối văn sáng sủa và mạch lạc. (3,15.18-20; 5,15-16; 9,38-43), dùng ít tiếng mà lại diễn tả được nhiều ý, như khi viêt về người con bà góa thành Na-in (7,11-17), người đàn bà tội lỗi (7,36-50), người trộm cướp sám hối (23,40-43), hai môn đệ trên đường Em-mau (24,13-35). Ý của Lu-ca là trình bày kỹ lưỡng các sự kiện, dựa vào những nguồn tài liệu chắc chắn (1,1-4). Tác giả đã nhìn các sự kiện liên quan đến Đức Giê-su với tất cả lòng tin của mình, lại chú trọng đến ý nghĩa của sự kiện nhiều hơn những gì khác. Có lẽ vì thế, đôi khi xem ra như ngài ít để ý đến niên đại (4,16,30; 5,1-11; 14,51) hay vị trí địa dư (10,13-15; 13,34-35; 24,26-49)
5. Nguồn gốc sách Tin Mừng Lu-ca
Sách này gắn liền với sách Công Vụ Tông Đồ. Để ấn định niên đại biên soạn sách Tin Mừng này, các nhà phê bình thường để ý đến tầm quan trọng sách dành cho sự kiện Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, nhất là khi thấy tác giả tách biệt sự kiện này với viễn tượng thế mạt. Điều này khác với Mát-thêu và Mác-cô. Hình như Lu-ca biết việc Giê-ru-sa-lem bị vây hãm và tàn phá vào năm 70 do quân đội của tướng Titus (x 19,43-44; 21,20-24). Nếu vậy thì sách đã được sọan sau thời kỳ đó. Các nhà chú giải ngày nay thường cho là vào khoảng năm 80-90.
Sách được gửi cho một nhân vật tên là Thê-ô-phi-lê như ghi ở trang đầu. Qua nhân vật này, dường như tác giả muốn nhắm các độc giả có văn hóa Hy lạp. Có nhiều dấu tỏ ra như thế, thí dụ ngôn ngữ, các lời giải thích địa lý Pa-lét-tin (1,26; 2,4; 4,31; 8,26; 23,51; 24,13), các phong tục Do thái (1,9; 2,23-24.41-42; 22,1-7), thái độ thờ ơ trước những cuộc tranh luật về luật pháp (5,20-38; 15,1-20; 23,15-22), mối quan tâm đến dân ngoại và sự lưu y đặc biệt đến thân thể Đấng Phục sinh (24,39-43).
Kết luận
Có lẽ thánh Lu-ca là người trình bày Tin Mừng hợp với tâm lý và văn hóa người Tây phương ngày nay hơn cả, vì tính sáng sủa và lối ưa giải thích. Thánh nhân cho thấy Con Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc mọi người, nhất là những nhỏ bé, yêu hèn, tội lỗi, là bậc thầy chí thánh rất đòi hỏi, nhưng lại cũng rất nhân hậu. Bản thân là thầy thuốc nên thánh Lu-ca biết cách chữa bệnh và cảm thông với con bệnh. Phải chăng vì vậy, ngài đã gợi hứng cho người thời nay nói đến mục vụ của lòng thương xót và áp dụng đường lối mục vụ này nơi những người lầm đường lạc lối, để đưa họ về nẻo chính đường ngay. Do đó Tin Mừng theo thánh Lu-ca vẫn mang tính hiện đại và thích hợp cho thời bây giờ.
L.M. An-rê Đỗ xuân Quế, o.p.